Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam

01/07/2010

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định "Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”; đồng thời, cũng chỉ rõ "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”.
Do vậy, có thể khẳng định rằng, tinh thần của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta là: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đã thực hiện hoạt động giám sát; tích cực tham gia góp ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động phối hợp với cơ quan nhà nước xây dựng và ban hành một số quy định, cụ thể hoá một bước cơ chế giám sát và đã đạt được kết quả bước đầu. Tuy nhiên, đến nay hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Phản biện xã hội là nhiệm vụ mới, rất quan trọng, khó khăn và nhạy cảm, nhưng chưa có cơ chế phản biện xã hội cụ thể, chưa có quy định thật rõ về mục đích, yêu cầu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, nội dung... phản biện xã hội. Do đó, để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội cần có các điều kiện bảo đảm sau.
1. Bảo đảm về nhận thức
 Giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là phản biện xã hội là chủ trương mới của Đảng ta nhằm phát huy và mở rộng một bước dân chủ trong xã hội, khơi dậy ý thức và trách nhiệm xã hội, huy động sự tham gia của các tổ chức nhân dân và cá nhân đóng góp trực tiếp vào việc xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; bảo đảm cho chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước khi ban hành được sự hưởng ứng và chấp hành nghiêm chỉnh của mọi công dân, khắc phục được những khiếm khuyết mà trong xã hội thường nêu về sự quan liêu, chủ quan, lợi ích cục bộ, xa thực tế, thiếu khả thi và hình thức trong quá trình xây dựng v.v.. đồng thời chất lượng xây dựng văn bản từng bước được nâng cao.
 Phản biện xã hội thể hiện quan hệ hợp tác, phối hợp giữa chủ thể phản biện và chủ thể được phản biện trong quá trình thực hiện phản biện, giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc; giữa cơ quan quyền lực và tổ chức của nhân dân, do đó cần có sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, Nhà nước và xã hội, nhất là trong cán bộ, công chức và nhân dân. Từ đó, các kiến nghị phản biện xã hội của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp nhận và giải trình đầy đủ trước khi dự án, đề án được ban hành, thực hiện.
Không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội của họ, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Muốn vậy, cần nâng cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của nhân dân thông qua việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về quyền giám sát và phản biện xã hội của họ. Bên cạnh đó, cần nâng cao dân trí và có biện pháp cụ thể để khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại với đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước. Trang bị cho nhân dân các thông tin và kiến thức cần thiết để họ có thể tự mình trực tiếp thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội.
 Về nhận thức, cần phải thấy rằng, giám sát và phản biện xã hội là quyền của dân, là trách nhiệm của Mặt trận với dân, với Đảng. Đảng là thành viên lãnh đạo của Mặt trận, Đảng cần tạo mọi điều kiện để Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ đưa giám sát và phản biện xã hội vào cuộc sống, trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên ở mọi nơi trong cả nước. Thông qua Mặt trận, nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng, đói nghèo, tụt hậu có hiệu quả, làm trong sạch bộ máy nhà nước và đảm bảo trong Đảng không thể có “vùng cấm” và “siêu đảng viên”. Mặt trận cần phải chủ động đề xuất với Đảng và Nhà nước những vấn đề tham gia phản biện. Phản biện trên tinh thần xây dựng. Đồng tình với những vấn đề đúng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, phản đối những vấn đề có hại đến lợi ích của nhân dân, chấp nhận những điều hợp lý và bổ sung những gì còn thiếu.
 2. Bảo đảm về thể chế
 2.1. Những thể chế liên quan
Những quy định pháp luật hiện hành chưa thực sự tạo được một cơ chế pháp lý hữu hiệu cho Mặt trận Tổ quốc thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội. Do vậy, cần hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm cho Mặt trận tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội theo hướng sau.
Một là, xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước, cũng như thực hiện sự phản biện xã hội đối với quá trình xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước phải trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân. Đồng thời, luôn suy tôn quyền tối thượng của Hiến pháp và bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, song có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm xây dựng các thiết chế giám sát có hiệu quả, tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm được tính thống nhất trong một cơ chế pháp lý hữu hiệu để nhân dân thực hiện quyền giám sát và quyền phản biện xã hội.
Hai là, nghiên cứu ban hành một số luật sau: Thứ nhất, ban hành Luật về hoạt động giám sát của nhân dân, trong đó có quy định về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong Luật này quy định đầy đủ và rõ ràng về nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Mặt trận. Đồng thời, Luật cũng quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước các yêu cầu kiến nghị giám sát của Mặt trận cũng như bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát của Mặt trận. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tốt và có hiệu quả chức năng giám sát của Mặt trận đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận. Thứ hai, ban hành Luật về hoạt động phản biện xã hội. Phản biện xã hội là một trong những giải pháp cấp thiết nhằm thực hiện quyền dân chủ, tự do của nhân dân. Hơn thế, đó còn là giải pháp quan trọng nhằm góp phần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ba là, xuất phát từ cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, cần tổ chức triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũngmột cách toàn diện. Trong đó, chú trọng việc tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân đối với đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước. Cần có các điều kiện bảo đảm, các phương án bảo vệ cho những cá nhân mạnh dạn tố cáo các hành vi tham nhũng, đi đôi với chế độ khen thưởng kịp thời. Nâng Pháp lệnh Dân chủ cơ sở thành Luật Dân chủ cơ sở. Đây là một việc cần sớm được tiến hành để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Bởi vì, về lâu dài, nếu cứ để hình thức pháp lệnh thì tính ổn định không cao và giá trị pháp lý thấp hơn hình thức luật. Hơn nữa, cần quán triệt quan điểm: hạn chế tối đa việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức pháp lệnh. Đối với Luật Khiếu nại, tố cáo, cần nhanh chóng hoàn thiện trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành và tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 6/3/2002, của Ban Bí thư, về "Một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay". Trước mắt, có thể tách Luật Khiếu nại, tố cáo thành Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, đi đôi với việc đổi mới quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo để nâng cao chất lượng của hoạt động giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo. Tất cả những việc làm nói trên đều nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
Bốn là, tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân phải được tiến hành đồng thời với việc tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát thuộc bộ máy đảng và nhà nước. Cụ thể, tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng như của Ban thanh tra nhân dân, với hoạt động thanh tra của Thanh tra Chính phủ, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Đặc biệt, cần chú trọng việc phối hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Bởi vì, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước cao nhất, và do vậy, khi được kết hợp với hoạt động giám sát trực tiếp của nhân dân (giám sát mang tính xã hội), sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý bảo đảm cho hoạt động giám sát của nhân dân được tiến hành có hiệu quả trên thực tế.
Năm là, thiết lập mối quan chặt chẽ hơn nữa giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Muốn vậy, cần cải tiến, hoàn thiện chế độ, thể chế bầu cử, bảo đảm đại biểu dân cử vừa mang tính đại diện, vừa hoạt động có chất lượng, hiệu quả, nhất là đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và cán bộ làm việc trong các cơ quan của Mặt trận Tổ quốc. Để làm tốt việc này, Mặt trận Tổ quốc cần đổi mới về chất hoạt động giới thiệu đại biểu và hoạt động hiệp thương lựa chọn danh sách đại biểu. Đồng thời, cử tri cần được cung cấp đầy đủ thông tin về ứng cử viên cũng như chương trình hành động của họ khi trúng cử; và cuối cùng, cần tăng cường hoạt động giám sát trực tiếp của cử tri trong lúc bầu cử.
 2.2. Thể chế trực tiếp
Trước mắt cần ban hành ba Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân với ba loại hình khác nhau là:
Thứ nhất, Giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức đảng và đảng viên;
Thứ hai, Giám sát và phản biện xã hội đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan tư pháp khác, cán bộ công chức của các cơ quan này và đại biểu dân cử;
Thứ ba, Giám sát và phản biện xã hội đối với các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước và cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan đó.
            Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần kiến nghị đề xuất với Đảng có Nghị quyết hoặc Chỉ thị chuyên đề và Nhà nước cần thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về phản biện xã hội, để quy định rõ về đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức, cơ chế cụ thể và điều kiện đảm bảo thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới thực hiện tốt được vai trò phản biện xã hội. Xin được kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần được quán triệt trong ba quy chế nêu trên như sau:
- Phạm vi nội dung phản biện xã hội: Không phải mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều phản biện, mà chỉ phản biện những chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, đến tổ chức bộ máy và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, những chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài; quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; kế hoạch, chương trình và những chính sách cụ thể về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
- Chủ thể được phản biện xã hội là cơ quan, tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương có thẩm quyền xây dựng đề án và thời điểm phản biện xã hội được bắt đầu từ khi khởi thảo dự án, đề án.
- Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận với tư cách là chủ thể phản biện xã hội có quyền và trách nhiệm: Chủ động đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây dựng dự án, đề án chuyển đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên hữu quan văn kiện khởi thảo dự án, đề án và dự thảo dự án, đề án để phản biện. Tổ chức phản biện, gửi kết quả phản biện đến cơ quan, tổ chức hữu quan để giải quyết. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây dựng dự án, đề án trả lời bằng văn bản về việc tiếp thu phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên hữu quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức được phản biện không tiếp thu kết quả phản biện, thì có quyền kiến nghị lên cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp hoặc cơ quan tổ chức có thẩm quyền xem xét, quyết định. Được bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện phản biện và chịu trách nhiệm trước nhân dân về nội dung phản biện của tổ chức mình.
- Cơ quan, tổ chức với tư cách là chủ thể được phản biện có quyền và trách nhiệm: Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên hữu quan thực hiện việc phản biện đối với dự án, đề án thuộc thẩm quyền xây dựng, ban hành của cơ quan, tổ chức mình từ khi khởi thảo dự án, đề án. Tiếp thu toàn bộ kết quả phản biện, không tiếp thu hoặc tiếp thu từng nội dụng của kiến nghị phản biện và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện biết. Đối thoại với chủ thể phản biện về những nội dung, kiến nghị phản biện khi cần làm rõ. Cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung phản biện của dự án, đề án theo yêu cầu của chủ thể khi thực hiện phản biện và cấp kinh phí từ dự án, đề án để chủ thể thực hiện phản biện xã hội.
- Nguồn lực con người và nguồn tài chính để thực hiện phản biện xã hội cần được đảm bảo và quy định rõ trong ba quy chế. Cần đảm bảo điều kiện về tài chính, vật chất thực thi công tác giám sát, phản biện xã hội; có chế độ đãi ngộ phù hợp để khuyến khích cán bộ mặt trận.
- Quá trình tổ chức phản biện xã hội phải đảm bảo tính Đảng, tính nhân dân; tính trung thực; tính khoa học, khách quan và thiết thực. Đồng thời các kiến nghị phản biện xã hội của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phải được cơ quan tổ chức có thẩm quyền tiếp thu và giải trình đầy đủ trước khi dự án, đề án được ban hành, thực hiện. Như vậy, hoạt động phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ thực sự góp phần làm cho chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước sát hợp với thực tiễn của đời sống xã hội, đáp ứng tốt nhất công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
3. Bảo đảm về nguồn lực
  Phát huy vai trò của các thành viên rộng lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các cá nhân tiêu biểu, các Hội đồng Tư vấn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (hiện ở Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có 8 Hội đồng Tư vấn trên các lĩnh vực pháp luật về kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học và giáo dục và đối ngoại), lực lượng cộng tác viên và đoàn viên, hội viên là những chuyên gia trên các lĩnh vực. Đồng thời, thông qua hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên, Mặt trận thường xuyên tổng hợp ý kiến, đề nghị, kiến nghị của cử tri và các tầng lớp nhân dân tập hợp dư luận xã hội là nguồn thông tin, tư liệu vô cùng phong phú về cả lý luận và thực tiễn để có cơ sở phản biện.
 Mặt trận cần xây dựng lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ tiên phong, đột phá. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải có những người thật sự có đức, có tài, có dũng khí, dám phản biện và biết phản biện. Mặt trận cần có các biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt trận các cấp, có chính sách quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức. Tập hợp xây dựng một đội ngũ chuyên gia có trình độ chính trị, chuyên môn, có chính kiến, có tư duy độc lập, thực sự “phụng công, thủ pháp”, theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực sự có “tâm”, nắm và hiểu được nguyện vọng chính đáng, hợp lý của dân và có đủ năng lực phản biện. Với tổ chức hệ thống mặt trận chặt chẽ, hợp lý, hoạt động có hiệu quả sẽ thực hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân mong muốn.
Quá trình tổ chức phản biện xã hội phải đảm bảo tính đảng, tính nhân dân, tính trung thực, tính khoa học, khách quan và thiết thực như đã nêu trên. Muốn có những ý kiến phản biện đúng, chính xác phải có hệ thống thông tin tốt, nhanh nhạy, nhưng đồng thời cũng phải có hệ thống phân tích thông tin trên cơ sở khoa học để xác nhận thông tin chính xác, đúng đắn của đa số. Đòi hỏi cấp bách của Mặt trận hiện nay là phải có hệ thống tiếp nhận và xử lý thông tin, trên cơ sở đó để Mặt trận dựa vào đấy đưa ra những ý kiến của mình. Đồng thời, Mặt trận cũng dựa vào báo chí để phản ánh kịp thời, mang tính công khai những vấn đề giám sát, phản biện...
4. Xác định lại chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc
 Trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Mặt trận cần tập trung vào 5 nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; Hai là: phát huy dân chủ; Ba là: đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; Bốn là: xây dựng sự đồng thuận xã hội; Năm là: giám sát và phản biện xã hội. Năm nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau trong thực tiễn hoạt động của Mặt trận và đều xuất phát từ các Nghị quyết gần đây của Đảng ta, trong đó phản biện xã hội là một trong những chủ trương mới của Đảng, nhằm “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Đây là một vấn đề mới góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Trong điều kiện đặc thù của thể chế chính trị nước ta với chỉ một đảng lãnh đạo, để củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Mặt trận có vai trò hết sức lớn, nhất là khi Đảng chủ động yêu cầu Mặt trận phải làm tốt chức năng phản biện xã hội. Đây chính là nhiệm vụ lớn lao mà không một tổ chức nào có thể đảm đương thay Mặt trận được. Vì vậy phải dám mạnh dạn tập trung vào chức năng quan trọng này, giảm bớt những việc tuy có thể cũng quan trọng và có ích, song các tổ chức khác có thể làm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những thành tựu kỳ diệu của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, một thế giới của Internet nối mạng toàn cầu. Ở mọi nơi, các hệ thống thứ bậc đang bị thách thức từ bên dưới, vì vậy hệ thống cấu trúc theo chiều dọc phải tự biến đổi thành cấu trúc theo chiều ngang và có tính cộng tác hơn để tạo ra nhiều giá trị hơn. Đặc điểm cấu trúc này bắt gặp với tư tưởng Hồ Chí Minh về một cấu trúc xã hội và thể chế chính trị, trong đó “quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Chức năng phản biện xã hội của Mặt trận là một biểu hiện sinh động của tư tưởng đó. Là tổ chức duy nhất có điều kiện tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, Mặt trận có lợi thế hơn hẳn so với bất cứ tổ chức nào để thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội. Vì thế nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội làm động lực cho đất nước vượt qua những thách thức, biến thách thức thành vận hội, đưa đất nước bứt lên, cần phải làm cho phản biện xã hội dần trở thành chức năng chính của Mặt trận trong giai đoạn mới. Mặt trận với lợi thế của mình phải vươn lên trên một tầm cao mới của nhận thức và hành động để đáp ứng đòi hỏi mới của đất nước, khởi động, tổ chức và phát huy tính đồng thuận xã hội, động lực mạnh mẽ của phát triển và hội nhập. Muốn vậy phải mạnh dạn đổi mới tổ chức, phương pháp công tác của Mặt trận tương xứng với chức năng và nhiệm vụ mới như phản biện xã hội./.