Tiến trình chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số nước ta

01/06/2013

1. Tiến trình chính sách và tiếp cận trong hoạch định chính sách dân tộc giai đoạn từ sau 1986
Cùng với sự đổi mới toàn diện của đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới cũng có những thay đổi đáng kể quan trọng. Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VI, tiếp theo được khẳng định tại Đại hội VII, VIII, nội dung về công tác dân tộc đã từng bước được cụ thể hoá trên phương diện quản lý nhà nước, thay đổi trong hoạt động tổ chức, điều hành, quản lý và nội dung chính sách dân tộc (CSDT). Nghị quyết số 22 NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế- xã hội miền núiđã chỉ rõ: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với miền núi; kiện toàn tổ chức và tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tham mưu, đủ sức giúp Trung ương cả trong công tác nghiên cứu, ban hành chính sách cũng như kiểm tra việc tổ chức thực hiện CSDT, chính sách kinh tế, xã hội ở miền núi”. Quyết định số 72-HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã cụ thể hoá những quy định trên, phân công trách nhiệm thực hiện cho các cơ quan có liên quan.
Hai văn kiện trên là một bước tiến quan trọng, đặt nền móng đối với công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Khẳng định chủ trương, đường lối và chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta, (i) gắn mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; (ii) thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ cùng phát triển giữa các dân tộc; (iii) phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và an ninh quốc phòng vùng đồng bào dân tộc.
Từ nhu cầu thực tiễn phát triển và đường lối chính trị, sau những năm 1991-1992, công tác dân tộc chuyển từ vận động chính trị là chủ yếu sang trọng tâm là thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư, chăm lo cải thiện mọi mặt đời sống chính trị, vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm cho các mục tiêu phát triển của đất nước.
Trong giai đoạn từ 1993 - 2000, nhiều chương trình, dự án, chính sách phát triển vùng miền núi và đồng bào dân tộc được ban hành và triển khai như: Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình định canh định cư, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135), Chính sách trợ giá, trợ cước, Chương trình hỗ trợ hộ dân tộc đặc biệt khó khăn, Chính sách cử tuyển con em dân tộc vào học các trường đại học cao đẳng v.v..
Từ những năm 2000 đến nay, nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, Khóa IX về Công tác dân tộc,hệ thống chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số tiếp tục được củng cố. Bên cạnh nhóm chính sách được điều chỉnh, bổ sung tiếp tục thực hiện như Chương trình 135 giai đoạn II (theo Quyết định 07/QĐ-TTg), có chính sách được xây dựng mới như: Chính sách hỗ trợ vay vốn hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (theo Quyết định 32/2007/QĐ-TTg). Nhiều lĩnh vực mới có chính sách được ban hành, nhất là trong giáo dục, y tế, đào tạo cán bộ, cùng các quyết định về phát triển vùng biên giới, vùng khó khăn miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Nhờ việc tăng cường nguồn lực đầu tư, tình hình kinh tế xã hội vùng dân tộc đã có những thay đổi đáng kể, nhất là về cơ sở hạ tầng, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước, góp phần tạo nên sự ổn định chính trị và bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Đánh giá tiến trình chính sách, có thể thấy rằng, hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển vùng dân tộc, miền núi đến nay tương đối toàn diện, bao hàm trên nhiều mặt, nhất là an sinh xã hội. Phần lớn chính sách được ban hành kịp thời, ngày càng được chi tiết, cụ thể hóa hơn các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước để làm tăng tính phù hợp cũng như hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đi liền với cơ chế phân cấp quản lý trong các hoạt động quản lý xã hội, cũng như đầu tư đã thúc đẩy chính quyền địa phương, khuyến khích người dân tham gia, chủ động, tự quyết và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Trong lịch sử, có một giai đoạn dài, người ta quan niệm rằng, tài nguyên rừng, đất đai miền núi là vô tận và chủ trương khai thác một cách ồ ạt. Quá trình di cư cơ học theo chương trình xây dựng kinh tế mới diễn ra mạnh mẽ vào những năm đầu 60 thế kỷ XX đã tạo nên sự phát triển nhiều mặt, có cả số lượng dân số ở nhiều vùng miền núi phía Bắc. Và cũng có một thời gian dài, những mô hình, kinh nghiệm phát triển ở miền xuôi được đưa lên miền núi như: phong trào hợp tác hóa, các công cụ sản xuất ở đồng bằng đưa lên canh tác trong điều kiện vùng núi cao.
Trên thực tế, sự phù hợp, không phù hợp của chính sách, hay cách làm như đã đề cập trên đều xuất phát từ cách tiếp cận xây dựng chính sách. Sự không phù hợp bắt nguồn từ sự thiếu rõ ràng trong quan điểm tiếp cận về chính sách. Về phương diện lý thuyết, chính sách phát triển cho vùng dân tộc thiểu số hiện còn được hiểu đồng nghĩa với CSDT và chính sách xóa đói giảm nghèo mà chưa có sự phân định tương đối giữa các nội hàm chính sách trong một hệ thống cấu trúc chung. Quan điểm này xuất phát từ quan niệm chính sách là sự thống nhất, áp dụng cho mọi đối tượng, địa bàn vùng, miền, khu vực cũng như mọi mặt bằng trình độ phát triển và nó được xem như là thực hiện nguyên tắc “bình đẳng” trong phát triển, chưa phân biệt yếu tố đặc thù, đặc điểm. Hiểu như vậy là chưa đầy đủ. Rõ ràng, khái niệm và thực thi “bình đẳng” ở đây chính là tạo ra những chính sách phù hợp và nó phải đi vào thực tế cuộc sống mỗi vùng, miền. Cái đích cuối cùng là đồng bào dân tộc thiểu số ở mọi nơi phải cùng được hưởng những thành quả của phát triển, của lợi ích từ những chính sách mang lại.
 Với một xuất phát điểm thấp về mặt bằng phát triển kinh tế, xã hội, vùng dân tộc muốn phát triển, hội nhập với quốc gia phải được thực thi bằng hệ thống chính sách phát triển. Tức là, chính sách đầu tư phải mang ý nghĩa, vai trò chủ đạo chứ không đơn thuần là “hỗ trợ”, và nó chính là bộ phận không thể tách rời của chính sách phát triển quốc gia, đóng góp vào phát triển của quốc gia. Có chăng, giai đoạn đầu chính sách có tập trung ưu tiên hơn vào các nội dung chính sách giảm nghèo trực tiếp cho người dân nhằm giải quyết những vấn đề ổn định đời sống người dân trước mắt. Nhưng xét về lâu dài, xóa đói giảm nghèo bền vững phải dựa trên nền tảng quá trình phát triển bền vững, tức là phải có chính sách đầu tư đồng bộ, dài hạn. Mặt khác, vùng dân tộc thiểu số có những điểm khác biệt với vùng đồng bằng và với các vùng trong cả nước nên phải cần có những chính sách riêng. Đó là chính sách cho cả một vùng đặc thù về điều kiện tự nhiên và có sự khác biệt về trình độ phát triển với các khu vực khác trong cả nước. CSDT là hướng vào đối tượng các dân tộc thiểu số với sự khác biệt về văn hóa, tập quán, tín ngưỡng, các đặc điểm tâm lý dân tộc, tâm lý tộc người. Ở đây cần có sự thống nhất trong quan điểm về chính sách phát triển và CSDT trong quá trình hoạch định chính sách.
Nhìn nhận, đánh giá quá trình biến đổi của chính sách phát triển vùng dân tộc miền núi phía Bắc có thể chia làm hai giai đoạn, năm 2001-2005 và 2006-2010 và đến nay. Những năm đầu của thập kỷ trước, Chương trình 135 được xem như là điểm nhấn chính sách và thành tựu nổi bật trong phát triển vùng miền núi và đồng bào dân tộc. Quan điểm về đầu tư đã có sự rõ ràng hơn về vốn, cơ chế quản lý, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, thủy lợi và cơ sở vật chất ngành giáo dục, y tế v.v... Tăng cường năng lực cấp cơ sở trong việc tổ chức thực hiện, giám sát quản lý và giám sát các chính sách, chương trình, dự án và phân cấp quản lý được xem là hoạt động ưu tiên để nâng cao hiệu quả các chính sách cũng như bảo đảm yếu tố bền vững.  
 Giai đoạn 2006-2010, cách tiếp cận trong các chính sách giảm nghèo cũng mang tính tổng hợp hơn. Chính sách tín dụng bắt đầu được triển khai thay vì nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân trước đây. Các hoạt động sinh kế và đa dạng thu nhập, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp và tạo việc làm cũng là hướng điều chỉnh của chính sách. Việc hỗ trợ tập trung vào giải quyết những nhu cầu thiết yếu của đời sống cá nhân và hộ gia đình, nhất là những vấn đề tư liệu sản xuất quan trọng như đất đai, công cụ sản xuất đến điều kiện sống như nhà ở, nước sinh hoạt. Giai đoạn này cũng đẩy mạnh thực hiện chính sách theo Chương trình 134 “về hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu sô nghèo đời sống khó khăn”. 
Quá trình phân cấp giai đoạn này cũng diễn ra mạnh mẽ như quy định cơ chế xã làm chủ đầu tư các công trình hạ tầng nhỏ, cơ chế giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện các công trình, nguồn vốn tại địa phương. Việc giao quyền cho địa phương đã làm tăng tính phù hợp cũng như chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện các chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình phân cấp lại chưa song hành với quá trình xây dựng năng lực cho các cấp chính quyền địa phương cùng với những trở ngại trong quy định thủ tục hành chính và nhất là thủ tục tài chính. Bên cạnh những yếu tố tích cực của hệ thống chính sách, vẫn còn những trở ngại xuất phát từ những quan niệm, định kiến về miền núi, dân tộc thiểu số, vẫn tồn tại những định kiến về sự lạc hậu, kém phát triển của đồng bào dân tộc trong cách nhìn của sự so sánh, áp đặt văn hóa, văn minh hiện đại. Điều này, trong thiết kế kỹ thuật chính sách dễ dẫn đến tư tưởng ban phát nhiều hơn là nhìn nhận đối tượng chính sách là chủ thể, như một cấu thành quan trọng trong phát triển quốc gia.
Mặt khác, sự thiếu hiểu biết cặn kẽ của những người làm chính sách cùng quan niệm rập khuôn về các mô hình và chính sách phát triển quốc gia cũng làm cho chính sách phát triển vùng dân tộc chưa phát huy được hiệu quả. Đặc biệt, đặt nó trong một bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, biến đổi nhanh chóng, rất nhiều các vấn đề kinh tế - xã hội, quan hệ dân tộc đã được chuyển hóa, nảy sinh, phái sinh, nhiều vấn đề mới đặt ra cho chính sách cần phải giải quyết.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng chính sách phát triển vùng dân tộc
Một là, quan điểm, nhận thức về tình hình thực tiễn
Việc lựa chọn vấn đề cần phải ban hành chính sách nhằm định hướng, thúc đẩy, điều chỉnh trong tiến trình phát triển hay không còn phụ thuộc vào nhận thức, quan điểm của bộ máy tham mưu và sự quyết định của người có thẩm quyền. Việc hoạch định chính sách còn phụ thuộc vào cách tiếp cận trong việc giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu của chính sách ở trung hạn hay dài hạn, trước mắt hay lâu dài. Đơn cử, một thời gian dài chính sách cho khu vực miền núi phía Bắc chưa được chú trọng khi phải dành ưu tiên cho khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, hay việc xem xét khía cạnh phương thức canh tác truyền thống và quyền về đất đai của đồng bào dân tộc. Việc xây dựng chính sách, nội dung cụ thể của chính sách còn phụ thuộc vào sự hiểu biết, thông tin, kinh nghiệm của những người tham gia, bao gồm cả quan điểm chính trị, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển dân tộc và xử lý mối quan hệ cũng như vấn đề dân tộc. Trên thực tế, giữa các bộ, ngành, cơ quan tham mưu chính sách, sự hiểu biết chung còn có những hạn chế nên thường nảy sinh những quan điểm, nhìn nhận, cách xử lý chính sách chưa được đồng nhất. Việc xử lý giữa mục tiêu và nguồn lực cũng là một vấn đề thường gây tranh cãi và thường là ưu thế nghiêng về các cơ quan nắm quyền lực ngân sách như tài chính, kế hoạch đầu tư. Ủy ban Dân tộc đã nhận định về một trong nhưng nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém là: “Nhận thức về công tác dân tộc, vị trí, vai trò của vùng dân tộc và miền núi trong phát triển kinh tế, xã hội, an ninh của một số Bộ, ngành trung ương, địa phương chưa sâu sắc, chưa thực sự coi công tác dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị”[1].
Hai là, quy trình xây dựng chính sách
Quy trình xây dựng chính sách hiện nay cần được thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là đối với khâu đánh giá, chuẩn bị cơ sở thông tin, dữ liệu phục vụ quá trình xem xét, đánh giá. Việc lấy ý kiến rộng rãi và tập hợp phản hồi thông tin về dự thảo chính sách cần được chú trọng để góp phần hoàn thiện chính sách. Kỹ năng xây dựng chính sách của một số cơ quan, cá nhân trực tiếp tham mưu chưa thực sự tốt cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế. Nhiều văn bản góp ý chưa thể hiện đúng tầm của văn bản tham mưu chính sách. Theo quy định hiện nay, có nhiều cơ quan Chính phủ cùng tham gia vào việc xây dựng chính sách, kể cả cơ quan không liên quan đến lĩnh vực chuyên môn. Ví như, một văn bản chính sách hiện nay cần lấy ý kiến của hơn 10 cơ quan bộ, ngành khác nhau, trước khi gửi Bộ Tư pháp thẩm định và tổng hợp để trình Chính phủ. Quy trình xây dựng chính sách hiện nay cũng cần thiết phải đặt ra cho giai đoạn dài hơi hơn chứ không chỉ 5 năm hay “việc xây dựng, ban hành chính sách còn theo tư duy nhiệm kỳ”[2]
Ba là, cơ sở và điều kiện cho xây dựng chính sách
Yếu tố ngân sách có ảnh hưởng lớn đến tính chất và nội dung chính sách cũng như tầm ảnh hưởng và hiệu quả của chính sách. Một số cơ quan giữ vai trò tham mưu cho Chính phủ về ngân sách chi phối nhiều đến việc hoạch định CSDT do thiếu các chế tài về trách nhiệm. Kinh phí và định mức chi cho xây dựng chính sách rất hạn chế[3] và phần lớn chi tiêu cho nội dung hội họp. Phần chi và định mức chi cho chuyên gia và ban soạn thảo trực tiếp đòi hỏi nhiều chất xám ở mức độ nên phần nào ảnh hưởng đến thái độ trách nhiệm cũng như chất lượng chính sách. Cá biệt có những chính sách ra đời không thực hiện được quá trình chuẩn bị đầy đủ theo quy định mà theo cách thức xử lý tình huống.
Bốn là, cơ sở tâm thức cho việc xây dựng chính sách
Xây dựng CSDT là một lĩnh vực khó đòi hỏi nhiều tâm huyết và trí tuệ cũng như trách nhiệm của những người tham gia. Câu hỏi đầu tiên là người tham gia xây dựng chính sách đứng trên quan điểm nào, về sự “cho” và “ ban phát” hay đó là nhiệm vụ chính trị. Điều này xuất phát từ trách nhiệm như một yếu tố động lực hay vấn đề lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế (cá nhân, nhóm) đằng sau chính sách đó. Thái độ và trách nhiệm của người bên ngoài, khi chưa hiểu nhiều về đồng bào miền núi, dân tộc sẽ có sự khác biệt với những người hiểu được và đã từng gắn bó với vùng đất, con người đó trong một ý nghĩa về tâm thức.
Năm là, tính phức tạp của những quan hệ trong xây dựng chính sách
 Do tính chất đa ngành của CSDT nên liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức ở các lĩnh vực khác nhau. Mối liên hệ với các cơ quan tuỳ thuộc vào tính chất, định hướng nội dung chính sách cụ thể. Có thể là quan hệ chủ trì - phối hợp đối với những chính sách được Chính phủ trực tiếp giao hoặc quan hệ phối hợp với cơ quan khác được giao chủ trì. Nhóm các bộ ngành quan hệ trực tiếp được quy định là: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp. Thêm vào đó là một số cơ quan chuyên ngành, tổ chức mang tính phối hợp như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội. Văn phòng Chính phủ là cơ quan tham mưu giúp Chính phủ đưa ra những quyết định cuối cùng về chính sách. Các quy định này làm phức tạp hơn quy trình, thủ tục xây dựng chính sách, nhiều khi nảy sinh sự chờ đợi từ chính những đơn vị không liên quan nhiều đến lĩnh vực chuyên môn.   
Sáu là, tính phức tạp nằm ở đặc điểm vốn có của khu vực miền núi, dân tộc
 Khu vực nông thôn miền núi mang nhiều tính đa dạng về yếu tố tự nhiên, khác biệt về tập quán canh tác, thói quen, lối sống và đặc biệt là khả năng thích nghi các yếu tố kinh tế thị trường, tạo nên khoảng cách chênh lệch trong phát triển. Phân hóa giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ ở các vùng, trình độ dân trí còn hạn chế, giao thông đi lại khó khăn, khó tiếp cận cơ sở, cũng là những trở ngại cho việc xây dựng chính sách để đạt được yêu cầu chất lượng tốt hơn. Xem xét ở nhiều tiêu chí mới thấy rõ ràng sự khác biệt của vùng Đông Bắc với Tây Bắc, với Tây Nguyên và Tây Nam Bộ và giữa các vùng với nhau.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng chính sách dân tộc
3.1. Bối cảnh thực tiễn của yêu cầu phát triển
Trong bối cảnh mới của tình hình thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, của vùng dân tộc, từ thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách hiện nay, cần thiết phải xây dựng một chiến lược phát triển dân tộc thiểu số ở tầm quốc gia. Chiến lược này được xây dựng dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá một cách đúng đắn, toàn diện về các vấn đề thực tại và dự báo xu hướng phát triển vùng dân tộc trong tổng thể chiến lược, chính sách phát triển quốc gia. Đó là:
Đối với trong nước: Giải quyết yêu cầu xóa đói giảm nghèo và phát triển vùng dân tộc trong của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xử lý tác động của quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, xử lý đúng đắn vấn đề biến đổi trong quan hệ dân tộc, trong đó có quan hệ kinh tế - văn hoá, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Xoá bỏ sự mất cân đối phát triển giữa các vùng, nhóm dân tộc, hội nhập vào sự phát triển của đất nước và thích ứng với bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực.
Đối với quốc tế: Những vấn đề tác động ảnh h­ưởng của thế giới, khu vực và trong xu thế hội nhập phát triển, đó là sự phát triển và tăng trư­ởng kinh tế toàn cầu và khu vực; vấn đề tôn giáo, sắc tộc và xung đột vũ trang chi phối các vấn đề quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao; quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nhiều quốc gia và thế giới; sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Vấn đề của khu vực: Giải quyết và xử lý đúng đắn quan hệ về vấn đề dân tộc liên quan đến các nước trong khu vực và thế giới là một yêu cầu quan trọng. Một mặt phải kiên trì thực hiện đường lối chính trị rộng mở, đa phương hoá, đoàn kết thống nhất dân tộc, mặt khác phải đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng diễn biến hoà bình đi ngược lại lợi ích dân tộc. Tuỳ từng sự việc, điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà có những phân tích, xử lý đúng đắn, và đòi hỏi công tác dân tộc phải nắm chắc tình hình, nhạy bén tham mưu tốt cho Đảng, Nhà nước trong công tác đối ngoại chính trị, đối ngoại nhân dân và xử lý tình huống khi cần thiết.
Về chiến lược phát triển dân tộc thiểu số theo cách tiếp cận giải quyết ở cả 3 cấp độ. Đó là những vấn đề chung mang tính chiến lược đặt trong tổng thể phát triển quốc gia, những vấn đề quốc tế và khu vực; những vấn đề mang tính đặc thù vùng dân tộc theo địa bàn; những vấn đề đối với các nhóm dân tộc ít người hiện còn rất khó khăn về đời sống kinh tế, xã hội thiếu các cơ hội bình đẳng về phát triển với các dân tộc có số dân lớn hơn. Thường thì các nhóm ít người này cũng gắn với địa bàn đặc biệt của vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới nhạy cảm về an ninh, quốc phòng.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng chính sách phát triển vùng dân tộc
- Cần nâng cao nhận thức chung của xã hội và nhất là các cơ quan, cá nhân tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện CSDT, sự hiểu biết đầy đủ hơn về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và CSDT trên quan điểm của Đảng, Nhà nước và yêu cầu của thực tiễn phát triển.
 - Nghiên cứu điều chỉnh quy trình hoạch định CSDT nhằm bảo đảm hơn tính khách quan, khoa học. Đặc biệt, cần thiết xây dựng cơ sở thông tin dữ liệu về dân tộc và vùng dân tộc, nhất là cơ sở dữ liệu về phát triển để làm cơ sở hoạch định và tổ chức triển khai CSDT. Chú trọng ưu tiên xây dựng cơ sở thông tin cho các khu vực trọng điểm như vùng biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
 - Nâng cao năng lực cho các cơ quan, cá nhân trực tiếp tham gia xây dựng và chỉ đạo, tổ chức thực hiện CSDT. Bao gồm cả sự hiểu biết về dân tộc, kỹ năng xây dựng chính sách. Xây dựng ý thức trách nhiệm và thái độ chính trị của đội ngũ công chức đối với việc thực hiện công tác dân tộc.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ cấu xây dựng và thực hiện chính sách. Việc tổ chức thực hiện cần có bộ máy, con người cùng các quy định về quan hệ và chế độ làm việc được hình thành cả ở cấp trung ương, trực tiếp là cơ quan thường trực chính sách, và địa phương gồm cấp tỉnh, huyện, để tiếp nhận triển khai công tác điều hành, quản lý.
- Thực hiện tốt sự phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan với Uỷ ban Dân tộc nhằm tạo sự đồng thuận cao trong việc tham mưu Thủ tướng Chính phủ và ban hành các văn bản hướng dẫn; trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện ở các địa phương./.

 


[1] Báo cáo: Đánh giá và triển khai thực hiện chính sách vùng dân tộc va miền núi” , UBDT, 4.2013
[2] nt
[3] Chỉ từ một đến vài trăm triệu cho một chính sách tùy nội dung, tính chất.