Chế định quyền con người, quyền công dân trong dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992

01/03/2013

1. Cách thức và khuôn khổ các quyền hiến định trong Hiến pháp 1992                                                                          
1.1. Những tiến bộ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
Một là, việc chế định quyền con người, quyền công dân được xếp ở chương thứ hai, chỉ sau Chương I Chế độ chính trị
Trong Hiến pháp 1992, chế định này được đặt ở Chương V, sau các chương về chế độ chính trị; chế độ kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ Tổ quốc. Vị trí thứ tự của chế định trong Hiến pháp thể hiện nhận thức của Nhà nước về tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân cũng như tầm quan trọng của việc hiến định các quyền này.
 Hiến pháp của hầu hết các nước thường đặt chế định quyền con người, quyền công dân ở vị trí ngay sau hoặc gần với chương về chính thể. Bằng cách đó để khẳng định: Nhà nước được lập ra để bảo vệ và thúc đẩy các quyền của công dân, và bản chất của hiến pháp là công cụ tổ chức, kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1946, 1959 của chúng ta và cả hai hiến pháp năm 1956, 1967 ở miền Nam Việt Nam trước đây cũng theo xu hướng như vậy khi đặt chế định quyền và nghĩa vụ của công dân ở các chương 2 và 3.
 Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, việc chế định quyền con người, quyền công dân được đặt ở Chương 2, chỉ sau Chương 1 Chế độ chính trị, xét về hình thức, là phù hợp với cách thức chế định các quyền này của đa số Hiến pháp các nước trên thế giới[1]. Và quan trọng hơn, cách thức chế định như vậy thể hiện bản chất của Hiến pháp là văn bản khế ước gốc giữa Nhà nước và người dân, nhằm thiết lập cơ chế kìm chế quyền lực nhà nước thông qua việc chế định quyền con người, quyền công dân.  
Hai là, đã khắc phục được sự nhầm lẫn quyền con người với quyền công dân và cách tiếp cận quyền đã thấm khá sâu vào nội dung, hình thức diễn đạt trong toàn bộ Hiến pháp, mà biểu hiện là đã chuyển được cách thức thức thiết lập quyền từ chỗ quy định dưới dạng Nhà nước“quyết định” quyền cho công dân, sang việc người dân được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các quyền con người và quyền công dân
Hiến pháp 1992 lần đầu tiên ghi nhận khái niệm quyền con người trong Điều 50 nhưng chính điều luật cho thấy một hạn chế về kỹ thuật lập hiến khi quy định: “… các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội… thể hiện ở các quyền công dân… ”. Ở đây, rõ ràng quyền con người đã được đồng nhất với quyền công dân, trong khi trên thực tế, đây là hai khái niệm tuy có nhiều điểm tương đồng, song khác nhau cả về tính chất, nội hàm và đặc biệt là về chủ thể, phạm vi áp dụng.
 Nhiều quyền trong Hiến pháp năm 1992 (ví dụ các Điều 53, Điều 54, 56, 57, 58,…) được quy định dưới dạng Nhà nước “quyết định” quyền cho công dân, chứ không phải người dân được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên. Trong 33 điều của Chương V Hiến pháp 1992, thuật ngữ “nhà nước” với tư cách là chủ thể “cấp phát” quyền xuất hiện nhiều lần, dưới dạng như: “Nhà nước bảo đảm...” ; “Nhà nước... có kế hoạch...”; “Nhà nước ban hành...”; “Nhà nước quy định” ; “Nhà nước giao...”; “ Nhà nước có chính sách”, “Nhà nước bảo hộ”;...
Sở dĩ có quy định như trên là do xuất phát từ quan điểm được nêu trong Điều 51 Hiến pháp 1992: "Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định".Đúng là để được bảo vệ và thúc đẩy, các quyền con người cần phải được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật; nhưng quy định đó đã gây hiểu nhầm là: hiến pháp và pháp luật(hay nhà nước)là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Quyền con người phải do và chỉ có thể do Hiến pháp và pháp luật(hay nhà nước) xác định thì mới có ý nghĩa thực chất, nếu không sẽ không được thừa nhận và áp dụng.
Cách hiểu như vậy không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, các quyền con người - với tính cách là quyền công dân khi được biểu hiện ở cấp độ quốc gia, là những giá trị tự nhiên, vốn có, gắn liền với mọi cá nhân, không phụ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào khác. Mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng hiến pháp và pháp luật) các quyền đó là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy chứ không thể cấp phát cho công dân các quyền con người.
Mặc dù không phải tất cả, song đa số hiến pháp trên thế giới chế định các quyền theo nguyên tắc các quyền tự nhiên. Một khi tuân thủ nguyên tắc này, quy định về quyền trong hiến pháp cần có cách diễn đạt theo nguyên tắc: các quyền con người là tự nhiên, bẩm sinh và vốn có của mọi cá nhân.  
Cách thức này không chỉ được thực hiện trên thế giới, mà trên thực tế đã được thực hiện ở Việt Nam qua Hiến pháp 1946. Các quy định trong Chương II Hiến pháp 1946 thể hiện rất rõ vị thế chủ thể quyền của người dân, ví dụ: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền...” (Điều thứ 6); “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật ...” (Điều thứ 7); “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều thứ 9);
Kế thừa Hiến pháp 1946 và tinh hoa tư tưởng của Hiến pháp nhân loại, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Khoản 1 Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Theo đó, dù cách thức diễn đạt chưa chuẩn như cách hiểu của luật pháp quốc tế, vì riêng thuật ngữ “bảo đảm” đã gồm các hàm nghĩa: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện (hay thúc đẩy) nhưng với việc chế định quyền như trên đã chuyển được cách thức thức thiết lập quyền: từ chỗ quy định dưới dạng nhà nước “quyết định” quyền cho công dân, sang việc “Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm - đúng ra chỉ là thực hiện hay thúc đẩy - theo Hiến pháp và pháp luật”.  
Những tiến bộ trên đã có thể đảm bảo nội dung hiến định phản ánh đúng bản chất của các quyền con người và quyền công dân, đồng thời phòng ngừa sự tùy tiện của Nhà nước trong việc quy định, thu lại, xóa bỏ, giảm bớt hay đặt ra những điều kiện không thích đáng đối với việc hưởng thụ các quyền con người của công dân thông qua Hiến pháp và pháp luật. Đây là cách thức hiến định quyền thể hiện rõ tính chất dân chủ, pháp quyền của thể chế hoặc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Thông qua đó, người dân có thể được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các quyền con người và quyền công dân.
Ba là, các hiến pháp Việt Nam, đặc biệt Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, dành cho quyền con người một khuôn khổ khá rộng lớn với nhiều quyền con người cơ bản mà luật nhân quyền quốc tế và nhiều hiến pháp của các nước trên thế giới đã ghi nhận, trong đó có một số quyền mới 
So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp Việt Nam khá phong phú, thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người. Quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế, và cũng được xác nhận trong các bản hiến pháp Việt Nam, chẳng hạn: tự do biểu đạt: trong Điều thứ 10 (Hiến pháp 1946), Điều 25 (Hiến pháp 1959), Điều 67 (Hiến pháp 1980), Điều 69 (Hiến pháp 1992); tự do tôn giáo, tín ngưỡng: trong Điều thứ 10 (Hiến pháp 1946), Điều 26 (Hiến pháp 1959), Điều 68 (Hiến pháp 1980), Điều 70 (Hiến pháp 1992); tự do lập hội: trong Điều thứ 10 (Hiến pháp 1946), Điều 25 (Hiến pháp1959), Điều 67 (Hiến pháp 1980), Điều 69 (Hiến pháp1992); tự do báo chí: trong Điều thứ 10 và 30 (Hiến pháp 1946), Điều 25 (Hiến pháp 1959), Điều 67 (Hiến pháp 1980), Điều 69 (Hiến pháp 1992); v.v...
Đặc biệt, Dự thảo Hiến pháp 1992 dành cho quyền con người, quyền công dân một khuôn khổ khá rộng lớn với nhiều quyền cơ bản mà luật nhân quyền quốc tế và nhiều hiến pháp của các nước trên thế giới đã ghi nhận. Về mặt kỹ thuật lập hiến, Dự thảo đã thể hiện rõ sự phân biệt quyền con người (mọi người) và quyền công dân (công dân). Việc sắp xếp quyền con người tương đối dễ hiểu, phù hợp với việc sắp xếp các nhóm quyền của luật nhân quyền quốc tế. Cụ thể:
Các quyền dân sự: mọi người có quyền sống (Điều 21 mới); mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật (Điều 22, sửa đổi, bổ sung Điều 71); mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (Điều 23, sửa đổi, bổ sung Điều 73); công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 24, giữ nguyên Điều 68); mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 25, sửa đổi, bổ sung Điều 70); công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 26, sửa đổi, bổ sung Điều 69); công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình (Điều 27, sửa đổi, bổ sung Điều 63); v.v...
Các quyền công dân: công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 28, sửa đổi, bổ sung Điều 54); công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội (Điều 29, sửa đổi, bổ sung Điều 53); công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 30, sửa đổi, bổ sung Điều 53); mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo (Điều 31, sửa đổi, bổ sung Điều 74); v.v...
Các quyền kinh tế: mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58; quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ (Điều 33, sửa đổi, bổ sung Điều 58); mọi người có quyền tự do kinh doanh (Điều 34, sửa đổi, bổ sung Điều 57); công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 35, sửa đổi, bổ sung Điều 67); công dân có quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 36, sửa đổi, bổ sung Điều 62); công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc (Điều 38, sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56); v.v...
Các quyền xã hội: nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ (Điều 39, sửa đổi, bổ sung Điều 64); trẻ em có quyền được gia đình, nhà trường, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục (Điều 40, sửa đổi, bổ sung Điều 65); công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe; bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế (Điều 41, sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 61); v.v...
Các quyền văn hóa: công dân có quyền và nghĩa vụ học tập (Điều 42, sửa đổi, bổ sung Điều 59); mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật; quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ (Điều 43, sửa đổi, bổ sung Điều 60); mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 44 mới); công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 45 mới); mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 46 mới); v.v...
Trong các quyền trên có một số quyền mới, hoặc trước đó đã có nay được diễn đạt mới, như quyền sống trong môi trường trong lành, quyền sở hữu tư nhân, quyền sống,... Một số quyền (có thể) được hàm chứa trong quyền khác. Ví dụ: việc cấm kiểm duyệt được hàm chứa trong Khoản 2, Điều 23 (sửa đổi, bổ sung Điều 73): “2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác do pháp luật quy định”. Quyền được thành lập và gia nhập công đoàn được hàm chứa trong Điều 26 (sửa đổi, bổ sung Điều 69): “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Bốn là, đã có quy định về việc giới hạn quyền
Khoản 2 Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về giới hạn và việc tạm đình chỉ thực hiện quyền là cần thiết để đảm bảo việc hưởng thụ các quyền của một cá nhân không ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng và của những cá nhân khác. Đây là điều đã được luật nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều quốc gia quy định. Vấn đề giới hạn quyền đã được ghi nhận trong Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội  năm 1966; Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
Hiến pháp một số nước cũng có quy định về giới hạn quyền và cả tạm đình chỉ việc thực hiện một số quyền con người. Chẳng hạn, Hiến pháp Nga, Điều 55 có nêu: “Các quyền và tự do của con người và công dân có thể bị giới hạn bởi pháp luật liên bang chỉ trong mức độ cần thiết đủ để bảo vệ nền tảng chế độ hiến pháp, đạo đức, sức khỏe, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”.
2. Những hạn chế của việc chế định về quyền con người, quyền công dân trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
2.1. Hạn chế về nội dung
Thứ nhất, thiếu một số quyền
Thực tế, không một Hiến pháp nào trên thế giới có thể liệt kê được đầy đủ hệ thống các quyền, vì các quyền cũng vận động và biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã hội. Nhưng cũng phải kể những quyền có trong Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới nhưng chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Việt Nam như: cấm kiểm duyệt; quyền được thành lập hoặc gia nhập công đoàn; cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; cấm hồi tố; không bị trừng phạt khi luật chưa quy định là tội phạm; quyền được im lặng hoặc không phải tự chứng minh mình không phạm tội; quyền được yêu cầu xem xét lại việc bắt giữ mình; quyền không bị xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội; cấm tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; các quyền của người không quốc tịch; quyền được đình công; một số quyền của lao động chưa thành niên;... Trong đó, cần phải nêu một số quyền quan trọng ở Việt Nam nhưng vẫn còn khuyết thiếu trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992,như quyền của người cao tuổi, quyền của người khuyết tật, quyền nghỉ ngơi, quyền được lao động trong môi trường trong lành,...
Thứ hai, thiếu những quy định về thiết chế bảo vệ và thúc đẩy quyền
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa ghi nhận về thiết chế bảo vệ nhân quyền (cơ quan nhân quyền quốc gia). Trong khi đó, theo chúng tôi, hiện đã có khoảng 50% số hiến pháp trên thế giới quy định việc thành lập một hoặc hai cơ quan nhân quyền quốc gia (ủy ban nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội hoặc cơ quan chuyên trách về quyền của một nhóm xã hội nhất định).
Thứ ba, Khoản 2 Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) chưa xác định cơ quan nào có thẩm quyền giới hạn quyền và thiếu việc xác định rõ những quyền không thể bị giới hạn
Dự thảo Hiến pháp không đề cập đến vấn đề này như Hiến pháp nhiều nước có xác định. Ví dụ, Hiến pháp Nga, Điều 57 quy định: “Trong bối cảnh tình trạng khẩn cấp, để bảo đảm an toàn cho công dân và bảo vệ chế độ hiến pháp, theo một đạo luật hiến pháp liên bang, có thể thiết lập những giới hạn nhất định đối với các quyền và tự do với điều kiện phải chỉ rõ phạm vi và thời hạn của những giới hạn đó. Tình trạng khẩn cấp có thể được ban bố trên toàn bộ lãnh thổ Liên bang Nga hoặc một phần lãnh thổ nhất định khi xuất hiện bối cảnh và theo trình tự được quy định trong đạo luật hiến pháp liên bang. Không được hạn chế các quyền và tự do được quy định tại các Điều 20, 21, 23 (khoản 1), 24, 28, 34 (khoản 1), 46-54 của Hiến pháp Liên bang Nga”. Đây đều là những quyền tự do cơ bản của con người, như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,...
Thứ tư, thiếu quy định bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền 
Thực tế cho thấy, không một bản hiến pháp của bất cứ quốc gia nào lại có thể quy định đầy đủ tất cả các quyền con người. Hầu hết các hiến pháp hiện hành của các nước chỉ quy định những quyền cơ bản (mặc dù quan niệm về các quyền cơ bản là rất khác nhau giữa các quốc gia). Do đó, có một số quyền con người, tuy không được chế định trong hiến pháp nhưng có thể được quy định trong các văn bản pháp luật khác của quốc gia. Vì thế, nếu không có quy định rõ ràng trong hiến pháp có thể gây hiểu nhầm rằng, những quyền hiến định quan trọng hơn, cần được ưu tiên bảo đảm thực hiện hơn so với các quyền không được hiến định.
Để khắc phục nhận thức sai lầm đó, Hiến pháp của một số quốc gia khẳng định rõ sự bình đẳng về các quyền. Ví dụ, Hiến pháp Hoa Kỳ (Tu chính án số 9) nêu rõ: "Việc liệt kê một số quyền trong hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp các quyền khác của người dân". Hoặc Hiến pháp Liên bang Nga (Điều 55) quy định: “1. Việc liệt kê các quyền và tự do cơ bản trong Hiến pháp Liên bang Nga không có nghĩa là phủ nhận hoặc xem nhẹ các quyền và tự do khác của con người và công dân đã được thừa nhận rộng rãi”.
Nhưng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của nước ta chưa có quy định như vậy.
Thứ năm, một số quyền đã quy định nhưng nội dung chưa toàn diện
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 ghi nhận một số quyền với nội dung “khuyết thiếu’ so với nội hàm của quyền đó trong luật nhân quyền quốc tế. Một quyền tiêu biểu là quyền được thông tin. Luật nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới quy định quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin; quyền được tìm kiếm thông tin; và quyền được phổ biến thông tin. Nhưng Điều 26 (sửa đổi, bổ sung Điều 69) trong Dự thảo lần này chỉ quy định quyền được thông tin; cụ thể: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
2.2. Hạn chế về kỹ thuật lập hiến
Thứ nhất, về tiêu đề của chế định quyền
Chương II của Dựthảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có tiêu đề “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Hiến pháp của một số nước trên thế giới cũng đặt tiêu đề tương tự, song xét trên phương diện lý luận, việc đặt tên như vậy là không phù hợp. Bởi lẽ, tiêu đề đó dễ gây hiểu nhầm là con người không có nghĩa vụ. Trong khi ở Khoản 2 Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) vẫn có việc chế định về giới hạn quyền con người và quyền công dân, tức là thừa nhận không chỉ quyền công dân, mà cả quyền con người cũng có nghĩa vụ.
Thứ hai, tính rườm rà, không chặt chẽ trong chế định quyền
Một số quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 rườm rà, không chặt chẽ. Chẳng hạn cả bốn khoản của Điều 64 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34) chế định về quyền văn hóa. Hoặc cùng một chủ thể nhưng được quy định ở nhiều điều. Thí dụ, Điều 39 (sửa đổi, bổ sung Điều 64) chế định về hôn nhân và gia đình; và đến Khoản 3 Điều 64 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34) lại quy định về mục tiêu xây dựng gia đình văn hóa. Ở đây có thể thấy hai điều trên đề cập những phương diện khác nhau về gia đình. Chúng ta nên hạn chế cách quy định theo kiểu “nhà phân lô” như vậy, mà phải tuân thủ tính khái quát của văn bản luật gốc mà một Hiến pháp cần phải có.
Đề đạt “ tầm hiến pháp”, xét về kỹ thuật lập hiến, nên kế thừa cách thức quy định trong Hiến pháp 1946 là ngắn gọn, khúc triết và có tính hàm xúc hay tính mở cho việc thể chế hóa thành luật. Chẳng hạn trong Chương II của Hiến pháp 1946 thể hiện rất rõ vị thế chủ thể quyền của người dân, như: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền...” (Điều thứ 6); “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật...” (Điều thứ 7); “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều thứ 9); v.v...
Thứ ba, ràng buộc các quyền hiến định “theo” và do đó, thấp hơn “quy định của pháp luật”
Trong chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có nhiều quy phạm về quyền kèm theo việc xác định phạm vi và khuôn khổ thực hiện “theo quy định của pháp luật” (Khoản 1 Điều 15, Điều 24, 26, Khoản 2 Điều 31 và 54, Khoản 1 Điều 56, Điều 57); hoặc theo quy hoạch và pháp luật (Điều 58). Chẳng hạn: Điều 24 (giữ nguyên Điều 68): “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”; Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 18): “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật”; v.v...
Cách quy định như vậy đã đặt các quyền hiến định thấp hơn các quy định của luật, đồng thời tạo cơ hội cho sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước trong việc hạn chế các quyền hiến định. Thêm vào đó, nó gây trở ngại cho người dân trong việc thực hiện các quyền hiến định, bởi người dân không biết nội hàm đầy đủ của quyền đó là gì, giới hạn của quyền đó đến đâu, khi bị vi phạm thì bảo vệ bằng cơ chế nào[2]./.

 


[1] Ví dụ: Hiến pháp CHLB Đức (Chương 1), Hiến pháp Liên bang Nga (Chương 2), Hiến pháp Nhật Bản (Chương 3), Hiến pháp Thái Lan (Chương 3), Hiến pháp CHND Trung Hoa (Chương 3),...
[2] Xem thêm PGS. TS. Nguyễn Như Phát, Báo cáo về tổ chức quyền lực trong Hiến pháp 1992 (phục vụ công tác Tổng kết thi hành Hiến pháp 1992).