Xác định phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

01/03/2018

Tóm tắt: Việc phán quyết trọng tài có phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành để có giá trị thi hành hay không ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của các bên có liên quan. Bởi lẽ, với thủ tục công nhận và cho thi hành, phán quyết trọng tài sẽ đối mặt với việc có thể không được công nhận và cho thi hành, đồng nghĩa với việc giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài trở thành vô nghĩa. Chính vì thế, việc có những quy định cụ thể và hợp lý để xác định phán quyết trọng tài nào là phán quyết trọng tài “nước ngoài” là điều vô cùng cần thiết.
Từ khóa: phán quyết trọng tài; trọng tài nước ngoài; quốc tịch trọng tài; công nhận và cho thi hành, Công ước New York.
Abstract: That an arbitral award is whether or not subjects to the procedure of recognition and enforcement to be effective or not significantly affects the rights and interests of the concerned parties. Thus, with the procedure of recognition and enforcement, the arbitral award will face the possibility of not being recognized for enforcement, which means that the arbitration panel's dispute becomes meaningless. Therefore, the specific and reasonable rules to determine which arbitration award is the "foreign arbitration" are absolutely necessary.
Keywords: Arbitration award; foreign arbitration; national arbitration; recognition and enforcement, New York Convention.

Untitled_276.jpg

Ảnh minh họa: nguồn internet

Trọng tài thương mại với những ưu điểm vượt trội của mình đang ngày càng được các bên trong quan hệ dân sự ưu tiên lựa chọn giải quyết các tranh chấp phát sinh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Với phương thức này, tranh chấp giữa các bên sẽ được Hội đồng trọng tài giải quyết và kết quả của nó là một phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, các phán quyết trọng tài không đương nhiên giống nhau về giá trị thi hành mà dựa vào tiêu chí này, có thể phân chia phán quyết trọng tài thành hai loại: (i) Loại thứ nhất, ngay khi ban hành sẽ ràng buộc các bên và có giá trị thi hành như là một bản án của Tòa án, được gọi là phán quyết trọng tài “trong nước”; (ii) Loại thứ hai, để được thi hành tại Việt Nam cần qua thủ tục công nhận và cho thi hành, được gọi là phán quyết trọng tài “nước ngoài”.
Việc phán quyết trọng tài có phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành để có giá trị thi hành hay không ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của các bên có liên quan. Bởi lẽ, với thủ tục công nhận và cho thi hành, phán quyết trọng tài sẽ đối mặt với việc có thể không được công nhận và cho thi hành, đồng nghĩa với việc giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài trở thành vô nghĩa. Chính vì thế, việc có những quy định cụ thể và hợp lý để xác định phán quyết trọng tài nào là phán quyết trọng tài “nước ngoài” là điều vô cùng cần thiết.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về phán quyết trọng tài “nước ngoài”  
Như đã đề cập, phán quyết trọng tài “nước ngoài” được hiểu là những phán quyết muốn được thi hành tại Việt Nam phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS 2015), phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành bao gồm: (i) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa XHCN Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài; và (ii) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp trên trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại[1]. Như vậy, với quy định này, có thể thấy, đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành theo pháp luật Việt Nam là phán quyết của trọng tài nước ngoài. Vấn đề đặt ra ở đây, hiểu như thế nào là phán quyết của trọng tài nước ngoài?
Bộ luật TTDS 2015 không giải thích khái niệm phán quyết của trọng tài nước ngoài mà viện dẫn đến quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM)[2]. Theo đó,  phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn[3]. Như vậy, pháp luật Việt Nam xác định phán quyết trọng tài “nước ngoài” dựa vào quốc tịch của trọng tài ra phán quyết, cụ thể nếu như là phán quyết của trọng tài nước ngoài thì dù được tuyên trong lãnh thổ hay ngoài lãnh thổ Việt Nam đều được xác định là phán quyết trọng tài “nước ngoài”. Nói cách khác, phán quyết trọng tài thuộc đối tượng công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bao gồm: (i) phán quyết của trọng tài nước ngoài tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam; và (ii) phán quyết của trọng tài nước ngoài tuyên trong lãnh thổ Việt Nam.
2. Khó khăn trong việc xác định quốc tịch của trọng tài ra phán quyết
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam xác định phán quyết trọng tài “nước ngoài” dựa vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài ban hành phán quyết. Vấn đề đặt ra đây là quốc tịch của trọng tài được xác định như thế nào? Luật TTTM 2010 giải thích trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam[4]. Như vậy, tiêu chí để xác định quốc tịch trọng tài là việc trọng tài đó được thành lập theo pháp luật nước nào, nếu được thành lập theo pháp luật Việt Nam thì đó là trọng tài Việt Nam, nếu được thành lập theo pháp luật nước ngoài thì đó là trọng tài nước ngoài.
Tuy nhiên, khi áp dụng tiêu chí này trên thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, theo cách tiếp cận hiện tại, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là trọng tài vụ việc (còn gọi là trọng tài ad hoc) và trọng tài thường trực (còn gọi là trọng tài quy chế). Trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài thường trực giải quyết tranh chấp, việc xác định quốc tịch trọng tài tương đối dễ dàng. Bởi lẽ, trọng tài thường trực thường tồn tại dưới dạng một trung tâm trọng tài có vai trò trung gian giữa các bên tranh chấp và trọng tài viên. Trung tâm trọng tài sẽ có trụ sở làm việc thường xuyên, có bộ máy tổ chức, có danh sách trọng tài viên, có quy tắc tố tụng riêng và phải đăng ký hoạt động tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, quốc tịch của trọng tài thường trực sẽ là quốc tịch của trung tâm trọng tài, được xác định theo pháp luật của quốc gia mà trung tâm trọng tài đó đăng ký hoạt động.
Ngược lại, nếu các bên lựa chọn trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp thì việc xác định quốc tịch trọng tài là không đơn giản. Bởi lẽ, khác với trọng tài thường trực, trọng tài vụ việc chỉ tồn tại một lần, không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, trọng tài viên sẽ do các bên chỉ định bất kỳ và quy tắc tố tụng của trọng tài vụ việc để giải quyết vụ tranh chấp có thể do các bên thỏa thuận xây dựng hoặc lựa chọn từ bất kỳ một quy tắc tố tụng nào của các trung tâm trọng tài. Vì thế, về cơ bản rất khó xác định pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để thành lập trọng tài vụ việc. Quốc tịch của trọng tài vụ việc lúc này không thể là quốc tịch của trọng tài viên vì các trọng tài viên có thể mang quốc tịch khác nhau, cũng không thể xác định theo quy tắc tố tụng vì các bên có thể tạo ra quy tắc tố tụng của riêng mình. Như vậy, trong trường hợp này, không có bất kỳ một tiêu chí cụ thể nào để xác định khi nào trọng tài vụ việc là trọng tài trong nước, khi nào trọng tài vụ việc là trọng tài nước ngoài.
3. Chưa phù hợp với quy định của Công ước New York và xu hướng thế giới
Điều 1 Công ước New York quy định: “Công ước này áp dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng cho những quyết định trọng tài không được coi là quyết định trong nước tại quốc gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu…”. Với quy định trên, có thể thấy Công ước New York đã xác định hai trường hợp phán quyết trọng tài “nước ngoài” thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành:
 - Trường hợp thứ nhất áp dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tàitheo nơi ban hành phán quyết. Ở đây, Công ước New York đã xác định phán quyết trọng tài nước ngoài trên cơ sở lãnh thổ, tức là chỉ cần phán quyết được ban hành trên lãnh thổ của một quốc gia khác thì đó được coi là phán quyết nước ngoài, không phụ thuộc vào quốc tịch của trọng tài ra phán quyết. Trong trường hợp này, nếu pháp luật quốc gia quy định khác là trái với Công ước, vì tiêu chí xác định bản chất trong nước hay nước ngoài của quyết định trọng tài là do Công ước đưa ra chứ không phải pháp luật của các nước thành viên[5].
 - Trường hợp thứ hai áp dụng cho những quyết định trọng tài không được coi là quyết định trong nước tại quốc gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu. Như vậy, trong trường hợp này, pháp luật của các quốc gia thành viên có thể quy định thêm những trường hợp ngoài quy định tại Công ước New York mà pháp luật quốc gia đó xác định là phán quyết của trọng tài nước ngoài. Đó là trường hợp khi trọng tài đưa ra quyết định không được xem là trọng tài quốc gia nơi có trọng tài ấy. Ví dụ: quyết định của trọng tài khu vực Á-Phi ở Kua-la-lum-pơ (Ma-lai-xi-a) được coi là quyết định của trọng tài nước ngoài tại Ma-lai-xi-a khi quyết định ấy cần được công nhận và cho thi hành ở đó (bởi vì trọng tài ấy không phải là trọng tài của Ma-lai-xi-a)[6].
Đối chiếu với pháp luật Việt Nam, theo quy định của Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTTM 2010, có thể thấy các trường hợp được coi là phán quyết trọng tài “nước ngoài” tuy dựa vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài ra phán quyết nhưng cũng không trái với Công ước New York. Cụ thể, đối với trường hợp phán quyết do trọng tài nước ngoài ban hành ngoài lãnh thổ Việt Nam, theo Công ước New York, đương nhiên được coi là phán quyết trọng tài “nước ngoài”. Bởi lẽ, nơi ban hành quyết định trọng tài là ở nước ngoài. Còn đối với trường hợp trọng tài nước ngoài ban hành phán quyết trong lãnh thổ Việt Nam thì đây cũng có thể coi là trường hợp pháp luật quốc gia thành viên xác định thêm những trường hợp được coi là phán quyết trọng tài “nước ngoài” bên cạnh quy định của Công ước New York.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là pháp luật Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Công ước New York. Bởi lẽ, như đã đề cập ở trên, Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTTM 2010 chỉ coi phán quyết của trọng tài nước ngoài là đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc, phán quyết do trọng tài Việt Nam ban hành thì dù tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam vẫn không được xác định là phán quyết trọng tài “nước ngoài”, nói cách khác là không cần thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Trong khi đó, theo quy định của Công ước New York thì chỉ cần phán quyết được tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam sẽ được coi là phán quyết trọng tài “nước ngoài” và phải tuân theo thủ tục công nhận và cho thi hành nếu muốn có giá trị thi hành tại Việt Nam.
Có thể thấy đây là sự mâu thuẫn giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế trong việc quy định giải quyết cùng một vấn đề. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết xung đột này như thế nào? Về cơ bản, nguyên tắc áp dụng pháp luật được sử dụng trong tất cả các hệ thống pháp luật, đó là ưu tiên áp dụng các quy định của điều ước quốc tế và Bộ luật TTDS 2015 cũng không phải là ngoại lệ. Khoản 3 Điều 2 Bộ luật TTDS 2015 quy định: “Bộ luật TTDS được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Điều này cho thấy, Bộ luật TTDS 2015 ưu tiên áp dụng những quy định của điều ước quốc tế khi có mâu thuẫn giữa quy định điều ước quốc tế và Bộ luật TTDS 2015. Do đó, về nguyên tắc, việc xác định phán quyết trọng tài có phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trước khi được thi hành hay không phải được ưu tiên áp dụng theo Công ước New York.
4. Kết luận
Có thể thấy, việc xác định phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTTM 2010 là chưa phù hợp với Công ước New York và xu hướng chung của thế giới. Do đó, theo chúng tôi trong thời gian tới, pháp luật trọng tài Việt Nam nên có những sửa đổi quy định về cách thức xác định phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo hướng áp dụng tiêu chí “nơi tuyên phán quyết” của Công ước New York. Với hướng quy định như vậy, chúng ta không cần phải xác định quốc tịch trọng tài để biết được phán quyết trọng tài đó có phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành hay không mà chỉ cần dựa vào nơi Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết cuối cùng giải quyết tranh chấp. Điều này có thể giúp nền trọng tài thương mại của nước ta tiến gần hơn với các quốc gia khác trên thế giới, điều vô cùng cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện tại./.

 


[1] Khoản 1 Điều 424 Bộ luật TTDS 2015.
[2] Khoản 3 Điều 424 Bộ luật TTDS 2015.
[3] Khoản 12 Điều 3 Luật TTTM 2010.
[4] Khoản 11 Điều 3 Luật TTTM 2010.
[5] Đỗ Văn Đại, Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 415.
[6] Nguyễn Trung Tín (2005), Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.172.