Hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu quốc hội

01/02/2010

Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội (ĐBQH) được quy định khá toàn diện trên các mặt công tác thuộc chức năng của Quốc hội. Những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH có mối quan hệ chặt chẽ trong pháp luật về ĐBQH, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để ĐBQH hoạt động và cũng làm cho hoạt động của ĐBQH bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Tuy nhiên, tính cụ thể, cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH, kể cả đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm cần được làm sáng tỏ để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH. Bài viết này, chúng tôi xin nêu ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ĐBQH.
Untitled_917.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Về thực hiện quyền lập pháp của ĐBQH 
Lập hiến, lập pháp là những chức năng quan trọng nhất của Quốc hội Việt Nam, do đó đây cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất của ĐBQH. ĐBQH có vai trò hết sức quan trọng trong việc tham gia quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ và hàng năm; nghiên cứu, kiến nghị, góp ý kiến, thảo luận, chỉnh lý và quyết định thông qua các dự án luật, pháp lệnh. Cũng chính vì vai trò quan trọng đó mà các Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội đều quy định ĐBQH có quyền trình
dự án luật. Riêng Hiến pháp năm 1992 bổ sungquyền kiến nghị về luật, pháp lệnh.
Công tác nổi bật nhất và cũng là thành tựu đạt được của Quốc hội trong thời gian qua là hoạt động lập hiến, lập pháp. Trong công tác này, các ĐBQH đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, hoạt động lập pháp của ĐBQH cũng còn những hạn chế nhất định, nên việc nghiên cứu để có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của ĐBQH đang là một yêu cầu bức xúc.
Quốc hội Việt Nam hoạt động theo kỳ họp, do đó cần quy định cơ chế cụ thể trong việc nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến của ĐBQH vào các dự án luật, pháp lệnh trong thời gian giữa hai kỳ họp, vì đây là điều kiện quan trọng để ĐBQH tiếp cận vấn đề, nắm bắt, tìm kiếm thông tin để nghiên cứu phục vụ cho việc thảo luận, chỉnh lý, xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội. Để đáp ứng yêu cầu đó phải có sự đổi mới trong quy trình lập pháp của Quốc hội, trong đó cần có giai đoạn bảo đảm sự tham gia xây dựng dự án luật, pháp lệnh của ĐBQH trước kỳ họp một cách thiết thực. Vừa qua, Quốc hội khóa XI đã tổ chức được Hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các ĐBQH chuyên trách toàn quốc về các dự án luật dự kiến trình Quốc hội. Đây là bước đi thử nghiệm song mới chỉ dừng lại ở một mức độ sơ khai. Vì giai đoạn này thực chất   là giai đoạn ĐBQH tiếp cận những quan điểm và nội dung cơ bản của dự án luật, qua đó tìm hiểu những thông tin về lý luận, nắm bắt thực tiễn, những yêu cầu bức xúc của cuộc sống, tâm tư, ý chí nguyện vọng của cử tri, của đối tượng mà luật điều chỉnh. Do đó, cần tạo cơ chế hợp lý, khả thi quy định cụ thể ngay trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cho không những ĐBQH chuyên trách mà cả các ĐBQH kiêm nhiệm có đủ các thông tin cần thiết về nội dung các dự án luật, chuẩn bị đầy đủ hệ thống kiến thức làm cơ sở cho việc thảo luận, quyết định thông qua dự án luật tại kỳ họp có hiệu quả, chất lượng. Xin nêu một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, để bảo đảm chất lượng tham gia xây dựng dự án luật, pháp lệnh của ĐBQH thì thời gian gửi tài liệu cho ĐBQH trước kỳ họp 20 ngày là không hợp lý, chưa phản ánh đúng thực tiễn của việc đọc, thu thập, nghiên cứu tài liệu, lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan, nhất là đối với các dự án lớn (như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Doanh nghiệp). Do vậy, theo chúng tôi, việc cung cấp thông tin tài liệu về dự án luật phải được tiến hành với thời gian dài hơn trước kỳ họp và phải được tiến hành nhiều lần, tạo hệ thống các quan điểm, kiến thức về các vấn đề của dự án luật cho ĐBQH.
Hai là, cần có những quy định cụ thể về hệ thống tài liệu liên quan đến dự án luật làm cơ sở để ĐBQH có đủ thông tin cần thiết trong việc nghiên cứu, hình thành các quan điểm, ý kiến đóng góp.
Ba là, bảo đảm có đủ các cơ chế mang tính khả thi trong việc ĐBQH lấy ý kiến cử tri, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, sử dụng chuyên gia, tư vấn pháp lý và tư vấn các lĩnh vực chuyên môn liên quan tới dự án luật. Đặc biệt, cần xác định rõ trách nhiệm của bộ máy tham mưu giúp việc cho ĐBQH ở trung ương và địa phương.
Bốn là, kinh phí dành cho hoạt động lập pháp của ĐBQH phải được bảo đảm một cách hợp lý, tránh phải phụ thuộc vào các cơ quan hữu quan như hiện nay và phải coi đó là một khoản độc lập từ ngân sách nhà nước nhằm góp phần để ĐBQH có được điều kiện độc lập hoạt động, hình thành luận chứng, quan điểm về các nội dung của dự án luật một cách khoa học, hợp quy luật, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của cử tri, phúc đáp yêu cầu của cuộc sống.
Cho đến nay, đã qua hơn 11 khóa Quốc hội, nhưng chưa có một dự án luật nào được soạn thảo và trình ra Quốc hội bởi ĐBQH.   Mặc dù quyền trình dự án luật của ĐBQH luôn được kế thừa qua các Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội. Hiện nay, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định trình tự, thủ tục trình dự án luật, dự án pháp lệnh của ĐBQH; trình tự, thủ tục trình kiến nghị về luật được quy định tại Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Tuy nhiên, cơ chế thực hiện và các điều kiện bảo đảm để tổ chức triển khai thực hiện các quy định này trên thực tế như thế nào đang là vấn đề còn bỏ ngỏ. Theo kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội một số nước thì quyền sáng kiến pháp luật của cá nhân ĐBQH được thực hiện chủ yếu thông qua các kiến nghị về luật, còn quyền trình dự án luật thực hiện chủ yếu thông qua một tập thể (một ủy ban, nhóm ĐBQH). Do đặc thù về tổ chức của Quốc hội Việt Nam, đa số ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm nên hình thức kiến nghị về luật là một phương thức khá phù hợp với ĐBQH. Riêng về việc trình dự án luật, dự án pháp lệnh của ĐBQH có thể thực hiện theo một cơ chế mới thông qua nhóm ĐBQH theo giới tính, ngành nghề chuyên môn, hiệp hội, tổ chức chính trị - xã hội... hoặc có thể theo một ủy ban tương ứng của Quốc hội. Thực tế cho thấy, đây là phương án có tính khả thi. Việc thông qua các nhóm trên để soạn thảo, trình dự án luật do ĐBQH kiến nghị có thể kết hợp với việc giao cho chính ĐBQH chủ trì, chỉ đạo việc nghiên cứu, soạn thảo và trình dự án luật đó. Việc có quy định khả thi và cơ chế hợp lý, thuận lợi để ĐBQH tăng cường trình dự án luật, pháp lệnh sẽ tăng cường  hơn nữa vai trò của Quốc hội trong hoạt   động lập pháp, bảo đảm tính chủ động, khách quan, hạn chế tình trạng cục bộ vì lợi ích ngành, của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp, tư pháp. Hoạt động không thường xuyên của Quốc hội đã đưa trung tâm hoạt động lập pháp của Quốc hội vào các kỳ họp, kỳ họp trở thành hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội, nơi tập trung trí tuệ của ĐBQH cho công tác lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Kỳ họp là nơi phản chiếu đầy đủ nhất, chính xác nhất hiệu quả hoạt động của Quốc hội, ĐBQH. Qua kỳ họp, hiệu quả hoạt động của các ĐBQH được đánh giá một cách khách quan. Đồng thời, kỳ họp còn là trường học rèn luyện, thử thách, đánh giá năng lực, phẩm chất, bản lĩnh của ĐBQH. Qua mỗi kỳ họp, người đại biểu thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cử tri cũng có điều kiện đánh giá trình độ, năng lực của người mà mình tín nhiệm bỏ phiếu lựa chọn. Để nâng cao hiệu quả lập pháp của ĐBQH tại kỳ họp, cũng cần đổi mới công tác làm luật, theo đó trước khi làm luật tại kỳ họp, các ĐBQH phải có những thông tin cần và đủ cho việc thảo luận, xem xét, thông qua các dự án luật. Những thông tin đó đã được các ĐBQH xử lý thông qua nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Việc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự thông qua dự án luật tại kỳ họp (chủ yếu các dự án được thông qua tại hai kỳ họp) đã tạo  ra một phương thức làm luật mới của Quốc hội, tạo điều kiện để các ĐBQH tập trung vào những vấn đề lớn có tính vĩ mô trong việc hoạch định chính sách, tránh được sự sa đà vào kỹ thuật lập pháp. Đây là bước đột phá quan trọng. Tuy nhiên, để tại một kỳ họp có thể cho ý kiến, thông qua được nhiều dự án luật mà vẫn bảo đảm chất lượng thì hoạt động lập pháp của ĐBQH còn nhiều việc phải làm. Trước hết về mặt nhận thức, trong quá trình thảo luận, chỉnh lý các dự án luật mà có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề của dự án là một tất yếu, vì mỗi ĐBQH xuất phát từ vị trí công tác, nghề nghiệp, chuyên môn các lĩnh vực khác nhau có thể nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ khác nhau. Đây là dấu hiệu đáng mừng, cần đổi mới hoạt động làm luật theo hướng chuyển từ Quốc hội chỉ có tham luận sang Quốc hội tranh luận về các vấn đề. Việc phát huy dân chủ trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng để các ĐBQH tự do thể hiện được quan điểm của mình. Tuy nhiên, thời gian tại phiên họp toàn thể thường không đủ cho tất cả các ĐBQH trình bày, phát biểu ý kiến, vì vậy sau mỗi buổi thảo luận cần tổng hợp ý kiến phát biểu, nêu các phương án, ý kiến, quan điểm khác nhau và đề nghị các ĐBQH gửi ý kiến chưa được phát biểu cho Đoàn thư ký để tổng hợp. Căn cứ vào quan điểm, định hướng chung, trên cơ sở tổng hợp ý kiến các ĐBQH, cần nghiên cứu, giải trình cặn kẽ về các phương án, ý kiến để ĐBQH cân nhắc, quyết định. Việc thảo luận của ĐBQH tại phiên họp toàn thể cũng cần đi thẳng vào vấn đề cơ bản, tập trung vào các định hướng lớn, thảo luận về những nội dung cụ thể của dự án luật cũng phải xoay quanh các định hướng này để bảo đảm và tăng cường tính hiệu quả của tranh luận, tránh sa đà vào những vấn đề không cần thiết.
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Quốc hội là làm việc tập thể và quyết định theo đa số. Nguyên tắc này được áp dụng trong phần lớn các công việc của Quốc hội, nhất là trong hoạt động lập pháp tại kỳ họp. Tuy nhiên, bên cạnh cơ chế biểu quyết theo đa số, cần có cơ chế để ĐBQH có quyền trình bày ý kiến của mình khác với ý kiến đa số và trong pháp luật về ĐBQH cần quy định trách nhiệm giải trình những vấn đề không được ĐBQH đồng ý, vì trong những trường hợp nhất định có khi chân lý không thuộc về số đông. Trong việc thảo luận, chỉnh lý, thông qua dự án luật, chính kiến của ĐBQH phải được thể hiện, việc đúng, sai
cần phải được giải thích, chứng minh một cách rõ ràng, minh bạch, không căn cứ vào đó là ý kiến của thiểu số hay đa số. Trên thực tế lâu nay trước khi biểu quyết về một vấn đề gì đó, Chủ tọa phiên họp thường hỏi các ĐBQH còn có ý kiến gì khác. Đây là một là một yêu cầu cần thiết bảo đảm tính dân chủ và tôn trọng chính kiến của đại biểu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Thủ tục này cần phải được quy định cụ thể và tiến hành một cách sâu sắc hơn, thực chất hơn.
2. Vềthực hiện quyền giám sát của ĐBQH
Hoạt động giám sát của ĐBQH được tập trung ở việc thực hiện quyền chất vấn và tiếp nhận, nghiên cứu, xử lý, đôn đốc, giám sát việc giải quyết đối với các kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi ĐBQH.
2.1. Chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn
Chất vấn các thành viên Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các chủ thể khác là phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội do ĐBQH tiến hành, thể hiện dân chủ thật sự trong hoạt động của Quốc hội. Đồng thời bảo đảm cho Quốc hội thực hiện đúng chức năng, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua các kỳ họp của Quốc hội khóa IX, khóa X và khóa XI, hoạt động chất vấn của ĐBQH không ngừng được đổi mới cả về phương pháp, nội dung chất vấn, được dư luận nhân dân đánh giá cao, bước đầu có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động chất vấn vẫn còn không ít bất cập, hạn chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chất vấn tại kỳ họp cần hoàn thiện phương thức chất vấn và trả lời chất vấn theo hướng sau:
Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh, trách nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH; năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn vào các thông tin mà ĐBQH thu nhận được. Do đó, ĐBQH phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn  đề mà đại biểu quan tâm chất vấn. Tuy nhiên, cần có những thông tin đã được xử lý thông qua chính ĐBQH, bằng chuyên gia phân tích, tư vấn, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp. Chất vấn của ĐBQH phải thật “đắt”, làm rõ được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, tạo cơ sở để Quốc hội buộc họ nhận thức ra và sửa chữa khắc phục những yếu kém. Đây là khâu còn yếu cần phải được hoàn thiện trong thời gian tới.
Hai là, sau khi nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo khác (nếu có), các ĐBQH gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Đoàn thư ký kỳ họp có trách nhiệm tổng hợp các chất vấn. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) dự kiến và trình Quốc hội quyết định những chất vấn phải trả lời tại hội trường, những chất vấn cần được trả lời bằng văn bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả lời tại phiên họp UBTVQH.
Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn, Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết làm rõ trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính phủ, các thành viên của Chính phủ, Viện  trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao... trong việc khắc phục những yếu kém, hạn chế mà ĐBQH chất vấn. Đây là cơ sở pháp lý để biến chất vấn của ĐBQH thành giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp và có giá trị pháp lý buộc chủ thể bị chất vấn phải thực hiện, đồng thời để tiếp tục giám sát, đánh giá tại các kỳ họp tiếp theo. Nếu trong một thời hạn hợp lý (qua 2 - 3 kỳ họp) mà người bị chất vấn không đề ra và thực hiện được những biện pháp khắc phục hữu hiệu thì cần xem xét và có thể tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người này. Đương nhiên khi thực hiện cũng cần đánh giá đúng khó khăn khách quan và khuyết điểm chủ quan của người bị chất vấn.Việc ra nghị quyết của Quốc hội về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn phải được xem như một hoạt động bình thường, thể hiện tính cương quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của ĐBQH.
Bốn là, không nên bố trí chất vấn và trả  lời chất vấn vào cuối kỳ họp, vì dễ có tâm lý buông xuôi, cho qua. Nên bố trí vào khoảng thời gian từ giữa kỳ họp đến khoảng 2/3 kỳ họp. Căn cứ vào nội dung chất vấn và trả lời chất vấn, UBTVQH quyết định những vấn đề cần báo cáo, giải trình hoặc những biện pháp mà người trả lời chất vấn phải khắc phục và báo cáo Quốc hội. Đương nhiên, tùy vấn đề và mức độ trách nhiệm mà xác định thời hạn báo cáo để đánh giá hoặc có thể tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm, nhưng cần báo cáo về biện pháp khắc phục đã làm tại kỳ họp tiếp theo của Quốc hội. Như vậy để người bị chất vấn thực sự nêu cao trách nhiệm, có những biện pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề bức xúc mà ĐBQH đã chất vấn.
Năm là, nâng cao trách nhiệm, chất lượng chất vấn của ĐBQH. Chất vấn cần hướng vào các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội mà cử tri đòi hỏi để làm rõ trách nhiệm, khuyết điểm của người bị chất vấn và yêu cầu họ phải thực hiện các biện pháp khắc phục. Tránh tình trạng nêu chất vấn không rõ hoặc chỉ để biết thông tin, không liên quan tới thẩm quyền, trách nhiệm của người bị chất vấn.
Sáu là, đối với những vấn đề bức xúc mà cử tri nêu ra, ĐBQH phải nghiên cứu trước, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin hoặc tự mình thu thập, xử lý thông tin về những vấn đề liên quan đến chất vấn. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào chất lượng, đúng bản chất sự việc, buộc đối tượng bị chất vấn phải “tâm phục, khẩu phục” sẽ làm cho cử tri cả nước có điều kiện để đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước và thêm tin tưởng vào Quốc hội.
Bảy là, đối với người trả lời chất vấn phải nghiên cứu kỹ yêu cầu chất vấn, chuẩn bị đầy đủ dữ liệu, trả lời tập trung, chính xác, súc tích vấn đề đã nêu. Không báo cáo vòng vo, liệt kê thành tích ngành, né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho ngành khác, cho khách quan; sau trả lời chất vấn phải đề ra và thực hiện cho được biện pháp khắc phục các hạn chế, khuyết điểm.
2.2.   Về tiếp dân và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân
Vấn đề tiếp dân, xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân là nhiệm vụ quan trọng của ĐBQH. Thực tiễn hoạt động của ĐBQH trong việc xử lý kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân cho thấy đây là công việc khó khăn; phương pháp hoạt động còn lúng túng; kết quả rất hạn chế, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu; chủ yếu các đơn thư gửi đến ĐBQH chỉ dừng lại ở mức chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm đề nghị giải quyết.
Để khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác ĐBQH tiếp dân, xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân, cần giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, cần quy định rõ trách nhiệm của Đoàn ĐBQH, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trong việc tổ chức để ĐBQH tiếp dân, xử lý kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân và đôn đốc, giám sát việc giải quyết của các cơ quan hữu quan.
Hai là, quy định rõ trách nhiệm của Văn phòng và Thư ký Đoàn ĐBQH trong việc tổ chức, giúp ĐBQH phân loại, xử lý kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
Ba là, bố trí cán bộ chuyên làm công tác tiếp dân, giúp ĐBQH trong việc theo dõi, đôn đốc các cơ quan giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Cán bộ tiếp dân phải có đủ tư cách, bản lĩnh, nắm vững pháp luật để giải thích cho nhân dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
Bốn là, cần quy định cụ thể trách nhiệm, thời hạn của các cơ quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân do ĐBQH chuyển đến. Trong trường hợp cơ quan hữu quan thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố tình không giải quyết theo đúng quy định của pháp luật thì có cơ chế để ĐBQH yêu cầu cấp có thẩm quyền xử lý và đăng tải vụ việc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3.   Vềtham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
ĐBQH tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội trên hai phương diện. Thứ nhất, tham gia quyết định các chính sách được quy định trong các đạo luật, thứ hai, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kế hoạch phát triển kinh tế kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; các công trình quan trọng của đất nước… Các quyết định này góp phần bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì ĐBQH là người thay mặt cử tri, nhân dân để xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, ĐBQH vừa tham gia quyết định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương bằng việc biểu quyết thông qua các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước để xác định hệ thống,
cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc, phương thức hoạt động và nhất là thẩm quyền, trách nhiệm; quyết định việc thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ… Đồng thời, ĐBQH tham gia quyết định các nhân sự cấp cao trong các cơ quan nhà nước này bằng việc bầu, phê chuẩn, bãi nhiệm, miễn nhiệm những người giữ chức danh cao cấp của Nhà nước.
3.1. Về thông tin đối với ĐBQH
Để có được nguồn thông tin phong phú, đa dạng, phản ánh khách quan, sát thực với cuộc sống đòi hỏi phải có hình thức và cơ chế linh hoạt để duy trì mối quan hệ thường xuyên giữa ĐBQH
với cử tri, với các cơ cấu của Quốc hội, với các cơ quan, tổ chức hữu quan và các phương tiện thông tin đại chúng... Những thông tin đó phải là một hệ thống toàn diện, bao gồm cả thông tin quá khứ, hiện tại, dự báo tương lai, thông tin trong nước và thế giới, thông tin phải đa chiều… bảo đảm những cơ sở dữ liệu, căn cứ cần thiết để ĐBQH xem xét, quyết định. Việc thiết lập các mối quan hệ trong việc thu thập và xử lý thông tin vừa là quyền vừa là trách nhiệm của ĐBQH. Là người được nhân dân ủy quyền để thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội, trong quyết định của mình, ĐBQH phải thể hiện được ý chí và nguyện vọng của cử tri, nhân dân. Do đó, đòi hỏi sự hài hòa, nhất là về mặt lợi ích trong mọi quyết định, nhưng phải lấy lợi ích của số đông, của đại đa số nhân dân làm nền tảng, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích của cử tri nơi ĐBQH được bầu (như về ngân sách, chính sách dân tộc, việc đầu tư các dự án lớn có tầm quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực và cả nước...) Vì vậy, phải đổi mới một cách căn bản về chế độ cung cấp và xử lý thông tin cho ĐBQH, nhất là trong điều kiện hiện nay đa số ĐBQH vẫn hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm. Vì một khi chưa rõ và thông tin chưa đủ thì các quyết định của Quốc hội sẽ là hình thức, mang tính chủ quan và có thể dẫn tới sai lầm. Điều tối cần thiết đối với mỗi ĐBQH là những thông tin, con số phải được xử lý, phân tích, đánh giá dưới góc độ chuyên môn, khoa học, thực tiễn;
thông tin phải đầy đủ, chính xác, khách quan, kịp thời và được lượng hóa. Việc thiếu thông tin, nhất là trong công tác thống kê, kiểm toán, tài chính, ngân sách… sẽ ảnh hưởng trực tiếp   đến  khả năng dự báo và chất lượng quyết định của mỗi đại biểu và Quốc hội.
Điều tối cần thiết đối với mỗi ĐBQH là những thông tin, con số phải được xử lý, phân tích, đánh giá dưới góc độ chuyên môn, khoa học, thực tiễn; thông tin phải đầy đủ, chính xác, khách quan, kịp thời và được lượng hóa. Việc thiếu thông tin, nhất là trong công tác thống kê, kiểm toán, tài chính, ngân sách…  sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng dự báo và chất lượng quyết định của mỗi đại biểu và Quốc hội.
3..2.   Về xác định những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc phạm vi quyết định của Quốc hội
Việc nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH phải bảo đảm không trùng lấn sang phạm vi hoạt động của các cơ quan, chủ thể khác trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa có tính thực tiễn sâu sắc trong việc phân công và thực hiện quyền lực nhà nước.
Vì cũng là những vấn đề về kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách, các công trình quốc gia… nhưng có vấn đề thuộc phạm vi quyết định của Chính phủ, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước. Để xác định về vấn đề này, theo chúng tôi, phải xuất phát từ cơ sở lý luận về Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước ở tầm vĩ mô, tầm quốc gia, chứ Quốc hội không phải là cơ quan “toàn quyền” nắm trọn các quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, khi tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước đòi hỏi mỗi ĐBQH phải nắm rõ, sâu sắc về phạm vi thẩm quyền quyết định của Quốc hội, trên cơ sở đó làm sáng tỏ các vấn đề ở tầm vĩ mô, kể cả những vấn đề cụ thể như quyết định các công trình quan trọng, bảo đảm để các ĐBQH thực hiện một cách đầy đủ và đúng đắn trách nhiệm của mình trước Quốc hội, cử tri và nhân dân.
3.3.   Bảo đảm dân chủ để ĐBQH tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Các quyết định của Quốc hội vì vậy là ý chí của đa số, do đó phải được tiến hành trên cơ sở các nguyên tắc, quy trình và thủ tục đã được xác định, bảo đảm để các ĐBQH được tham gia thảo luận, đánh giá, thể hiện chính kiến, quan điểm của mình đối với tất cả các vấn đề mà Quốc hội quyết định, tạo điều kiện để ĐBQH phản ánh ý chí chung của đại đa số cử tri, nhân dân trong các quyết định, phù hợp với quy luật khách quan của cuộc sống. Các vấn đề phải được ĐBQH thảo luận kỹ, cân nhắc đánh giá một cách toàn diện, lựa chọn các phương án để đưa ra các quyết định tối ưu, phù hợp. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng một quy trình, thủ tục chặt chẽ, dân chủ để ĐQBH tham gia một cách thực chất vào quá trình quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quy trình đó phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc chuẩn bị, tạo điều kiện để ĐBQH có thể nắm bắt và xử lý được những thông tin cần thiết cho việc xem xét, quyết định; phát huy vai trò và phương thức hoạt động của ĐBQH tham gia vào quá trình này, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, khách quan, kịp thời trong các quyết định của Quốc hội.