Quy định về thanh toán qua ví điện tử của một số nước, những gợi mở cho Việt Nam

27/09/2021

THS. NGUYỄN THỊ ANH THƠ

Phó Trưởng Khoa Pháp luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội,

NGUYỄN THÙY ANH*, PHẠMTHỊ BÍCH NGỌC*, TRỊNH KIM KHÁNH *,

* Sinh viên Khoá 43, Khoa Pháp luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Thanh toán qua ví điện tử đã trở thành phương thức thanh toán phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, các quốc gia lại xây dựng các mô hình khác nhau về các quy định đối với hoạt động thanh toán qua ví điện tử. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả phân tích quy định của pháp luật về thanh toán qua ví điện tử ở một số nước trên thế giới và rút ra những gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh toán qua ví điện tử.
Từ khoá: Ví điện tử, thanh toán qua ví điện tử, pháp luật về thanh toán qua ví điện tử.
Abstract: Payments via e-wallet service have become a popular payment method in serveral countries in the world. However, the countries are applying different models of legal regulations on payments via e-wallets. Within the scope of this article, the authors provide an analysis of the legal regulations on payments via e-wallets in a number of countries and also give out suggestions for Vietnam so that it is to further review and improve the provisions of the law on payments via e-wallets.
Keywords: E-wallets, payments via e-wallet, legal regulations on payments via e-wallet.
 VÍ-ĐIỆN-TỬ.jpg
 Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Tổng quan về thanh toán qua ví điện tử
1.1. Khái niệm thanh toán qua ví điện tử
Thanh toán qua ví điện tử hay gọi tắt là dịch vụ ví điện tử trước hết được hiểu là phương thức thanh toán điện tử, được thực hiện trên nền tảng Internet và thông qua các thiết bị điện tử. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, chưa có một khái niệm thống nhất về ví điện tử kể cả trong hệ thống pháp luật quốc tế[2]. Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 1 Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 1/7/201 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt quy định: “Dịch vụ ví điện tử là dịch vụ cung cấp cho khách hàng một tài khoản điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tạo lập trên vật mang tin (như chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính...), cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1”. Như vậy, thanh toán qua ví điện tử là một thuật ngữ chỉ phương thức thanh toán điện tử mà ở đó các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian có thể cung cấp, kinh doanh dịch vụ này bằng cách tạo lập một nền tảng ứng dụng trên mạng Internet, cho phép người dùng đăng ký một tài khoản để lưu trữ tiền điện tử và thực hiện các giao dịch thanh toán thông qua các vật mang tin như di động, máy tính, máy tính bảng, hoặc các phương tiện điện tử trung gian khác.
1.2. Đặc điểm của thanh toán qua ví điện tử
Thứ nhất, về chủ thể: So với các phương thức thanh toán điện tử khác như: thanh toán bằng thẻ, chuyển khoản ngân hàng (Internet Banking),..., ví điện tử có thêm sự tham gia của bên chủ thể cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian giữa các bên trong giao dịch (chủ thể kinh doanh dịch vụ ví điện tử). Bên cung cấp dịch vụ ví điện tử này sẽ hoạt động bằng cách khởi tạo một nền tảng ứng dụng qua mạng Internet làm cơ sở để cho phép người dùng đăng ký tài khoản của riêng mình và hỗ trợ trung gian các giao dịch thanh toán giữa các bên sử dụng dịch vụ với nhau.
Thứ hai, về phạm vi giao dịch: Ví điện tử hoạt động dựa trên mạng lưới Internet. Vì vậy, phạm vi giao dịch của loại hình thanh toán này khá rộng, bao gồm trong nước hoặc ra cả nước ngoài. Điều này phụ thuộc vào nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở quy định của pháp luật nước sở tại, pháp luật nước ngoài, cũng như các điều ước quốc tế có liên quan.
Thứ ba, về đồng tiền sử dụng thanh toán: Sự xuất hiện và phát triển của thanh toán điện tử nói chung và phương thức thanh toán điện tử qua ví điện tử nói riêng đã đòi hỏi phải có một phương tiện thanh toán cũng cần có sự tương thích. Vì thế, nếu trong thanh toán truyền thống, giao dịch giữa các bên được thực hiện thông qua tiền mặt thì đối với thanh toán qua ví điện tử, phương tiện thanh toán được sử dụng trong giao dịch lại là tiền điện tử[3].
2. Quy định của pháp luậtvề thanh toán qua ví điện tử một số quốc gia trên thế giới
2.1. Trung Quốc
Năm 2010, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (People’s Bank of China – PBOC) đã ban hành Thông tư số 02 ngày 14/ 06/2010 về Quy tắc quản lý dịch vụ thanh toán do các tổ chức phi tài chính cung cấp[4] (Quy tắc thanh toán PBOC) và Thông tư số 17 ngày 01/12/2010 về Biện pháp thực hiện các quy tắc về quản lý dịch vụ thanh toán do các tổ chức phi tài chính cung cấp[5] (Biện pháp thực hiện thanh toán PBOC). Đến năm 2016, PBOC tiếp tục ban hành Thông tư số 43 về Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến đối với các tổ chức không phải ngân hàng[6] (Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến) được áp dụng cho tất cả các “tổ chức thanh toán phi ngân hàng”[7].
Nội dung các văn bản nêu trên điều chỉnh về các vấn đề sau:
- Điều kiện thành lập và hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử:Quy tắc thanh toán PBOC đưa ra các quy định cụ thể về các điều kiện để trở thành một tổ chức kinh doanh dịch vụ thanh toán và đặt ra các lệnh cấm chung đối với các tổ chức phi tài chính cung cấp các dịch vụ thanh toán từ bên thứ ba đã xác định trừ khi họ được PBOC cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ thanh toán (Payment Services License-PSL)[8]. Giấy phép PSL có hiệu lực trong vòng năm năm và các đơn xin gia hạn phải được nộp cho các chi nhánh địa phương của PBOC sáu tháng trước khi PSL hết hạn. Mọi thay đổi liên quan đến tên, vốn đăng ký, cơ cấu tổ chức, cổ đông chính của chủ sở hữu PSL hoặc việc chia tách sáp nhập của chủ sở hữu PSL hoặc các thay đổi về loại hình phạm vi kinh doanh của mình đều phải được PBOC chấp thuận[9].
- Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử:Quy tắc thanh toán PBOC đưa ra các điều khoản bắt buộc các chủ sở hữu PSL phải tuân theo để đảm bảo lợi ích cho người sử dụng như: không được coi tiền của khách hàng là tài sản riêng của mình; phải gửi tiền của khách hàng vào một tài khoản được mở và chịu sự giám sát của một ngân hàng thương mại, chỉ có thể chuyển tiền khi và chỉ khi có lệnh/ chỉ dẫn của khách hàng[10]. Bên cạnh đó, mỗi chủ sở hữu PSL chỉ có thể mở một tài khoản tiền gửi tại một chi nhánh của ngân hàng thương mại; vốn tiền tệ của chủ sở hữu PSL không được thấp hơn 10% trong số dư trung bình tiền của khách hàng trong 90 ngày[11] để đảm bảo khả năng thanh toán, giao dịch của ví điện tử mà chủ sở hữu PSL điều hành. Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến còn đặt ra yêu cầu với các tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện tử phải thiết lập một hệ thống quản lý tên thật, bằng việc tuân theo quy tắc “biết khách hàng của bạn” (“know your client” - KYC). Quy định này nhằm đảm bảo xác minh hiệu quả và chính xác về danh tính của khách hàng, ngăn chặn việc mở và sử dụng các tài khoản ẩn danh hoặc các tài khoản giả danh, cũng như ngăn chặn các cá nhân trốn tránh thực hiện các biện pháp KYC thông qua việc sử dụng nhiều tài khoản cùng một lúc.
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử: Nhằm nâng cao hơn mức độ bảo vệ người tiêu dùng cũng như kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra, Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến đã đặt ra các cấp độ tài khoản, mỗi cấp độ sẽ có phạm vi, hạn mức giao dịch khác nhau dựa trên chính mức độ xác thực khách hàng.
- Việc giám sát, kiểm tra, đánh giá các tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: PBOC đã đưa ra cơ chế, nguyên tắc để phân loại và đánh giá các tổ chức phi ngân hàng, bao gồm cả các tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện tử nhằm duy trì việc cung cấp các dịch vụ chất lượng. Theo đó, các tổ chức này sẽ được PBOC đánh giá định kỳ, phân loại theo 5 nhóm lớn với 11 cấp độ. Kết quả đánh giá xếp hạng A thì sẽ được áp dụng cơ chế giám sát thông thoáng hơn và ngược lại, các tổ chức xếp loại kém sẽ bị áp dụng cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, PBOC đặt ra mức xử phạt là 30.000 NDT đối với các hành vi vi phạm, song quy định này được cho rằng là quá thấp để trở thành một quy định xử phạt có tính răn đe[12].
2.2. Singapore
Năm 2019, Nghị viện Singapore chính thức thông qua Luật Dịch vụ thanh toán (Payment Services Act - PSA), có hiệu lực vào tháng 01/2020[13]. Nội dung văn bản này điều chỉnh những vẫn đề liên quan đến giao dịch thanh toán qua ví điện tử như sau:
- Điều kiện thành lập và hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử:PSA điều chỉnh bảy hoạt động thanh toán[14] song song với việc quy định ba loại giấy phép có các yêu cầu khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của từng dịch vụ và từng nhà cung cấp[15]. Dịch vụ ví điện tử được hiểu là một dịch vụ phát hành tài khoản[16], nên nhà kinh doanh dịch vụ ví điện tử cần phải có giấy phép của dịch vụ phát hành tài khoản điện tử mới được hoạt động[17]. Trường hợp nhà cung cấp dịch vụ phát hành tài khoản tiền điện tử vượt quá ngưỡng quy định của số tiền điện tử trung bình hàng ngày trong một năm dương lịch thì phải xin giấy phép tổ chức thanh toán lớn[18]. Nếu bên cung cấp dịch vụ thanh toán không xin giấy phép kinh doanh theo quy định sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù có thời hạn nhưng không quá 3 năm[19].
- Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử:Tổ chức kinh doanh dịch vụ có hai nghĩa vụ: bảo vệ người dùng và giải quyết các rủi ro qua thanh toán bằng ví điện tử.
+ Nghĩa vụ bảo vệ người dùng: Nhà cung cấp dịch vụ phải có trách nhiệm thông báo rõ ràng cho mọi tài khoản về nghĩa vụ của người tiêu dùng và của công ty mình; cung cấp thông báo về mọi giao dịch của người dùng (cập nhật ít nhất 24 giờ/lần, kèm theo thông báo qua SMS hoặc email). Đối với “tài khoản được bảo vệ”[20], nhằm mục đích báo cáo các giao dịch trái phép hay sai sót mọi thời điểm trong ngày cho người dùng, nhà cung cấp dịch vụ có trách nhiệm phải cấp thêm một kênh báo cáo (qua điện thoại, tin nhắn văn bản, email hoặc cổng thông tin trực tuyến).
+ Nghĩa vụ liên quan đến giải quyết rủi ro trong giao dịch qua ví điện tử: PSA không chỉ đặt ra các nghĩa vụ liên quan đến giải quyết rủi ro để bảo vệ người tiêu dùng, mà còn đặt ra các quy định hướng đến việc giải quyết các vấn đề khác trong các giao dịch thanh toán qua ví điện tử, đó là ngăn chặn rủi ro công nghệ và ngăn chặn rủi ro về rửa tiền và tài trợ cho khủng bố[21]. Với ngăn chặn rủi ro công nghệ, nhà cung cấp dịch vụ phải đảm bảo rằng có đủ quản trị rủi ro và thực hiện đủ các biện pháp kiểm soát trong các lĩnh vực như xác thực người dùng, xử lý an toàn khi dữ liệu bị mất, phát hiện và ngăn chặn tấn công dữ liệu qua mạng. Với ngăn chặn rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố, nhà cung cấp phải đáp ứng được các yêu cầu về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố như: tiến hành xác thực khách hàng, giám sát các giao dịch, cung cấp dịch vụ có sàng lọc, báo cáo các giao dịch đáng ngờ và lưu giữ đầy đủ hồ sơ giao dịch.
- Đồng tiền sử dụng thanh toán trong ví điện tử: PSA công nhận cả tiền điện tử (electronic currencies) và tiền số hóa (cryptocurrencies)[22] là hợp pháp trong thanh toán nhưng chỉ có tiền điện tử được phép sử dụng trong dịch vụ phát hành thẻ thanh toán, bao gồm cả dịch vụ ví điện tử. PSA định nghĩa tiền điện tử là bất kỳ giá trị tiền tệ nào được lưu trữ điện tử: (i) có giá trị bằng một loại tiền tệ hoặc được tổ chức phát hành định giá bằng một loại tiền tệ; (ii) được trả trước để cho phép thực hiện giao dịch thanh toán thông qua tài khoản; (iii) được chấp nhận sử dụng bởi một người không phải tổ chức phát hành; (iv) đại diện cho một quyền truy đòi (nợ) đối với tổ chức phát hành[23].
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử: PSA quy định các tổ chức thanh toán được cấp phép cung cấp dịch vụ phát hành tài khoản phải: (i) hạn chế người dùng giữ hơn 5.000 đô la trong ví điện tử của họ; (ii) ngăn người dùng chuyển hơn 30.000 đô la trong vòng mỗi năm vào các tài khoản khác ngoài tài khoản ngân hàng được chỉ định trước đó của người dùng[24].
2.3. Indonesia
Ở Indonesia, các vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch thanh toán qua ví điện tử được điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn bản do Ngân hàng trung ương Indonesia ban hành: Quy chế số 18/40/PBI/2016 về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán năm 2016 (Quy chế số 18)[25] và  Quy định số 20/6/PBI/2018 về tiền điện tử năm 2018 (Quy định số 20)[26]. Hai văn bản này điều chỉnh các vấn đề sau:
- Điều kiện thành lập và hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: Theo Quy chế số 18, tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử có thể là ngân hàng hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn không phải ngân hàng nhưng được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ[27] và phải có (hoặc dự định có) ít nhất 300.000 người dùng[28] . Tuy nhiên, đối với các nhà cung cấp dịch vụ ví điện tử có dưới 300.000 người dùng chưa đáp ứng được yêu cầu để được Ngân hàng Trung ương Indonesia cấp giấy phép thì các công ty này sẽ vẫn được hoạt động nhưng phải thực hiện nghĩa vụ gửi báo cáo hoạt động thường xuyên cho Ngân hàng Trung ương Indonesia[29]. Thêm vào đó, theo một tổ chức phát hành chỉ có thể có quyền sở hữu cổ phần nước ngoài tối đa là 49%;[30]các tổ chức cung cấp dịch vụ dịch vụ ví điện tử nước ngoài, muốn tham gia vào thị trường ví điện tử ở Indonesia, phải hợp tác với một ngân hàng thương mại của Indonesia được phân loại là 'Buku 4'[31].
- Đồng tiền sử dụng thanh toán trong ví điện tử: Indonesia cũng là quốc gia thừa nhận tiền điện tử là đồng tiền trong thanh toán bằng ví điện tử[32]. Các tính năng của tiền điện tử có thể được cung cấp bởi các tổ chức phát hành theo Quy định số 20 có thể ở dạng: (a) nạp tiền; (b) giao dịch thanh toán mua sắm; và / hoặc (c) thanh toán hóa đơn. Ngoài ra, tổ chức phát hành cũng có thể cung cấp các loại tính năng khác như chuyển tiền và rút tiền, đối với tiền điện tử vòng mở đã đăng ký; và/hoặc các tính năng được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Ngoài các tính năng, tiền điện tử được phát hành trên lãnh thổ Indonesia phải sử dụng đồng Rupiah Indonesia. Các nhà cung cấp bị cấm chấp nhận, sử dụng, liên quan và/hoặc tiến hành xử lý giao dịch thanh toán tiền điện tử bằng tiền ảo.
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử: Trước đây, trong các văn bản chính thức của Ngân hàng Trung ương Indonesia vẫn chưa quy định mức cụ thể đối với số dư tối đa trong ví điện tử. Quy định số 20 đã chính thức giới hạn tối đa của ví điện tử là 10 triệu Rp và giới hạn giao dịch trong vòng 1 tháng không được vượt quá 20 triệu Rp.
- Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng ví điện tử: Pháp luậtIndonesia không chỉ đưa ra những quy định đối với nhà cung cấp dịch vụ, mà còn đưa ra cả các quy định liên quan đến người sử dụng. Trước hết, theo Quy định số 18, người sử dụng được xác định là những người: (i) giao dịch thường xuyên bằng ví điện tử hoặc (ii) giao dịch bằng ví điện tử ít nhất một lần trong một tháng. Người dùng dịch vụ sẽ được đảm bảo quyền lợi khi nhà cung cấp ví điện tử hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình trong việc bảo đảm quản lý các giao dịch diễn ra một cách an toàn trơn tru, bảo mật thông tin khách hàng, không được dùng thông tin vào sai mục đích. Đặc biệt, người dùng có quyền yêu cầu hoàn trả số tiền giao dịch khi đó nhà cung cấp sẽ phải hoàn tiền ngay cho người dùng ví điện tử khi có yêu cầu hoàn lại tiền[33]. Đồng thời, người dùng cũng phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và đúng thông tin để tiến hành giao dịch.
- Việc xử lý các hành vi vi phạm của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: Nhà cung ứng dịch vụ thanh toán mà vi phạm các quy định trong các văn bản nêu trên sẽ bị xử phạt dưới những hình thức: (a) cảnh cáo bằng lời nói; (b) tiền phạt; (c) tạm thời đóng băng một phần hoặc tất cả các hoạt động tiền điện tử và / hoặc các hoạt động dịch vụ hệ thống thanh toán khác; và / hoặc (d) thu hồi giấy phép cung ứng dịch vụ thanh toán[34].
3. Những gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh toán qua ví điện tử
Ở Việt Nam hiện nay, ví điện tử đang ngày càng phát triển với lượng người dùng đông đảo và là một thị trường tiềm năng đối với các nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực này[35]. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã và đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh toán qua ví điện tử. Vì vậy, việc vận dụng kinh nghiệm pháp luật của các nước trong hoàn thiện các quy định của pháp luật về ví điện tử ở nước ta là rất cần thiết. Thông qua những nghiên cứu trên đây, các tác giả rút ra một số gợi mở cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, những gợi mở liên quan đến quy định về ví điện tử và tiền điện tử.
Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 (Nghị định số 101); Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Ngân hàng nhà nước Hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 23/2019/TT-NHNN ngày 22/11/2019 (Thông tư số 39) là những văn bản điều chỉnh dịch vụ thanh toán qua ví điện tử. Tuy nhiên, các văn bản này không đề cập đến khái niệm tiền điện tử như là đồng tiền thanh toán trong ví điện tử. Mặc dù hiện nay, “tiền điện tử” đã dần trở nên phổ biến, nhưng lại chỉ có số ít người hiểu rõ và phân biệt được tiền điện tử với các loại tiền kỹ thuật số khác. Điều này dễ dẫn đến việc người dùng đánh giá sai lệch hoặc có cách hiểu không thống nhất với nhau, gây ra trở ngại cho các bên trong việc sử dụng ví điện tử để thanh toán. Từ kinh nghiệm của Singapore và Indonesia, Việt Nam cần bổ sung quy định về tiền điện tử trong các văn bản pháp luật điều chỉnh thanh toán không dùng tiền mặt.
Thứ hai,những gợi mở liên quan đến quy định về điều kiện thành lập và hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử.
Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành, điều kiện tiên quyết để trở thành nhà cung ứng dịch vụ ví điện tử - phải là một tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Tổ chức này có thể là ngân hàng hoặc không phải ngân hàng nhưng phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán[36]. Bên cạnh đó, đối với tổ chức không phải là ngân hàng, phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như: phải có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp; có phương án kinh doanh dịch vụ trung gian thanh toán được phê duyệt theo đúng quy định về thẩm quyền đầu tư tại điều lệ hoạt động của tổ chức; có vốn điều lệ tối thiểu là 50 tỷ đồng; đáp ứng được các điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật[37]. So với quy định pháp luật Trung Quốc, Indonesia, các quy định của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về số vốn, về điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công ty kinh doanh dịch vụ ví điện tử không hoạt động hiệu quả. Điều này gây nhiều khó khăn cho người dùng trong việc lựa chọn ví điện tử để sử dụng vì không thể nắm bắt được ví nào đáng tin cậy ví nào không. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng khó khăn trong việc kiểm soát, giám sát những tổ chức kinh doanh dịch vụ này. Để khắc phục hạn chế này, Việt Nam có thể áp dụng kinh nghiệm của Trung Quốc đặt ra giấy phép PSL để có thể liên tục kiểm soát được quá trình hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ ví điện tử, cũng như kiểm soát được liệu công ty đó có đi vào hoạt động cung cấp dịch vụ ví điện tử trên thực tế hay không.
Thứ ba, những gợi mở liên quan đến quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dịch vụ ví điện tử.
Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ thanh toán qua ví điện tử được quy định khá đầy đủ tại Thông tư số 39. Nhà cung ứng dịch vụ ví điện tử không chỉ có nghĩa vụ đối với khách hàng, người dùng ví, mà còn có nghĩa vụ đối với các ngân hàng.Ngoài ra, đối với vấn đề bảo mật thông tin, nhà cung cấp dịch vụ ví điện tử còn phải đảm bảo thực hiện đúng các nghĩa vụ được quy định trong Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định số 101. Tuy nhiên, những văn bản này chưa trù liệu đến nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ trong việc xử lý các tình huống rủi ro liên quan đến kỹ thuật, công nghệ, mạng hay các giao dịch có yếu tố lỗi[38]. Trong khi đó, việc tiến hành các giao dịch dựa trên nền tàng Internet như ví điện tử thì quy định này là vô cùng cần thiết. Vận dụng kinh nghiệm của Singapore, Việt nam cần bổ sung quy định về nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ trong việc điều hành hệ thống, sớm phát hiện và giải quyết vấn đề cũng như đảm bảo quyền lợi của chính nhà cung cấp ví điện tử và người tiêu dùng.
Thứ tư, những gợi mở liên quan đến quy định về hạn mức giao dịch trong ví điện tử.
Hiện nay, trong bối cảnh ví điện tử đang ngày càng phát triển tại thị trường Việt Nam, số lượng người dùng cũng như giá trị giao dịch ngày càng tăng cao[39] thì quy định hiện hành thay đổi từ hạn mức giao dịch ngày sang hạn mức giao dịch tháng là 100 triệu đồng/tháng[40] là thực sự hợp lý. Mặt khác, quy định này sẽ gây khó khăn cho người dùng, cản trở cho việc ví điện tử tiếp cận đến nhu cầu thực tiễn của khách hàng cũng như gây cản trở khả năng phát triển của loại hình dịch vụ thanh toán này. Trên cơ sở kinh nghiệm của Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam có thể cân nhắc lựa chọn sửa đổi quy định này theo hướng kết hợp giữa việc xác thực người dùng và hạn mức ví hoặc hạn mức giao dịch./.
 

 


[1] Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2021.
[2] Phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce – ICC) có cách hiểu ví điện tử dựa trên bản chất hoạt động của ví điện tử là một hệ thống dựa trên phần mềm để thực hiện các giao dịch thương mại điện tử, được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử, có tính năng xác thực người dùng, lưu trữ thông tin và còn có thể sử dụng kết hợp với các hệ thống thanh toán di động khác (Xem thêm tại: International Chamber of Commerce (ICC) (03/2020), WTO Plurilateral Negotiations on Trade-related Aspects of Electronic Commerce, tr.7, https://iccwbo.org, truy cập lần cuối ngày 25/12/2020). Khác với cách tiếp cận của ICC, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development - OECD) lại nhìn nhận ví điện tử là một loại hình “dịch vụ trung gian” và đưa ra khái niệm “dịch vụ trung gian” (“mediating services”) thay vì khái niệm ví điện tử; theo đó trong dịch vụ này sẽ có bên kinh doanh “dịch vụ trung gian” làm cầu nối giúp khách hàng thanh toán, và khách hàng chỉ cần đăng ký sử dụng dịch vụ bằng cách cung cấp chi tiết thẻ tín dụng hoặc tài khoản ngân hàng. Xem Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD) (18/04/2006), Online payment systems for e-commerce, DSTI/ICCP/IE(2004)18/FINAL, tr.20, https://www.oecd.org/sti/ieconomy/36736056.pdf, truy cập lần cuối ngày 25/12/2020. 
[3] Hiện nay, trên thế giới, tiền kỹ thuật số (digital currencies) bao gồm tiền ảo (virtual currencies), tiền điện tử (electronic currencies) và tiền số hóa (cryptocurrencies). Sự khác biệt chính giữa ba loại tiền kỹ thuật số này đó là tính chuyển đổi giữa chúng với tiền mặt. Theo Vivian Shum thì “tiền ảo” là loại “tiền” thường được sử dụng trong các trò chơi điện tử trực tuyến, do một công ty trò chơi điện tử nào đó phát hành mà không có bất cứ một tài sản cơ sở nào, chỉ công ty kiểm soát và chỉ sử dụng cho các giao dịch trong nội bộ hệ thống. Trong khi đó, “tiền” trong ví điện tử là “tiền điện tử” – loại tiền có thể dùng để mua các hàng hóa/dịch vụ “thật” mà việc thanh toán sẽ được thực hiện thông qua bên trung gian (bên thứ ba), ví dụ như Paypal. Cuối cùng, “tiền số hóa” như Bitcoin, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng (Xem thêm: ThS. Trần Thanh Bình, “Những bất cập của các quy định pháp luật về ví điện tử”, Tạp chíKhoa học Pháp lý số 03/2016, tr.69, https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=93635ea3-fe66-427a-afee-ba6e6e4e02bd, truy cập lần cuối ngày 02/01/2021).
[4]  http://www.lawinfochina.com/Display.aspx?lib=law&Cgid=134238, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
[5] http://www.lawinfochina.com/display.aspx?lib=law&id=8564&CGid, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
[6] Các biện pháp quản lý hoạt động kinh doanh thanh toán trực tuyến của các tổ chức thanh toán không phải ngân hàng, được ban hành bởi Thông tư số 43 của PBOC vào ngày 28/12/2015, có hiệu lực vào ngày 07/01/2016, http://lawinfochina.com/display.aspx?id=21209&lib=law, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
[7] “Tổ chức thanh toán phi ngân hàng” được định nghĩa trong Thông tư số 43 là các tổ chức không phải ngân hàng, được hoạt động với một giấy phép kinh doanh thanh toán và được phép cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tuyến thông qua Internet và các thiết bị di động. Tuy nhiên, chính PBOC cũng cho rằng, các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán sẽ bị giới hạn hơn so với các ngân hàng khi chỉ được “cung ứng cho công chúng các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, thuận tiện cho các giao dịch thanh toán nhỏ lẻ với giá trị thấp và số lượng ít”, điển hình là dịch vụ thanh toán bằng ví điện tử ( Xem Hogan Lovells (2016), China regulates online payment business of non-bank players, TMT China Brief - Winter/Spring 2016, p.12, https://www.hlmediacomms.com/files/2016/02/China-regulates-online-payment-business-of-non-bank-players-.pdf, truy cập lần cuối ngày 20/01/2021).
[8] Điều 3 Quy tắc thanh toán PBOC.
[9] Điều 13,14 Quy tắc thanh toán PBOC.
[10] Điều 24, 26, 29 Quy tắc thanh toán PBOC.
[11] Điều 30 Quy tắc thanh toán PBOC.
[12] Weihuan Zhou, Douglas W.Anner, Ross P.Buckley (09/2015), Regulation of Digital Financial Services in China: Last Mover or First Mover?, p.27, https://hub.hku.hk/bitstream/10722/220011/1/Content.pdf?accept=1, truy cập lần cuối ngày 07/01/2021.
[13] Ngoài PSA, vấn đề thanh toán điện tử của Singapore còn chịu sự quản lý, điều chỉnh của Cơ quan tiền tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS) thông qua nhiều văn bản dưới luật, điển hình như Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng trong thanh toán điện tử (E-payments User Protection Guidelines – Nguyên tắc EUPG ), Các yêu cầu về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (AML / CFT),…
[14] Phần 1 Phục lục 1 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
[15] Điều 6.2 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
[16] “Dịch vụ phát hành tài khoản” được định nghĩa bao gồm các dịch vụ phát hành tài khoản thanh toán cho bất kỳ người nào (Phần 3, danh mục 1). “Tài khoản thanh toán” được hiểu là bất kỳ tài khoản, thiết bị hoặc phương tiện nào ở dạng vật lý hoặc điện tử (Điều 2.1.) Dịch vụ ví điện tử cũng là hoạt động phát hành tài khoản thanh toán kỹ thuật số cho người dùng và được biểu hiện dưới dạng một tài khoản lưu trữ tiền điện tử, do vậy thuộc loại dịch vụ thanh toán trên.
[17] Điều 5.1 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
[18] Điều 6.5 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
[19] Điều 5.3 và Điều 6.15 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
[20] “Tài khoản được bảo vệ” là tài khoản có số dư trên 500 đô la Singapore.
[21] Frequently asked questions (FAQs) on the payment services act (PS Act) – Monetary Authority of Singapore, question 20, p.16, www.loc.gov, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
[22] “Tiền số hóa” như bitcoin, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng. Về “tiền số hóa”, hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng: (i) cấm và coi “tiền số hóa là bất hợp pháp (Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Nga,…); (ii) có xu hướng tiến hành cấp phép cho “tiền số hóa” (Thụy Điển, Đức , Đan Mạch, Pháp, Hồng Kông, Hoa Kỳ,…).
[23] Điều 2 Luật Dịch vụ thanh toán.
[24] Frequently asked questions (FAQs) on the payment services act (PS Act) – Monetary Authority of Singapore, question 46, p.28, www.loc.gov (Truy cập lần cuối ngày 04/01/2021).
[25]http://intr.insw.go.id/files/ecommerce/7.%20Regulation%20of%20BI%20No%2018.40.PBI.2016%20on%20Concerning%20
the%20implementation%20of%20payment%20transaction.pdf, truy cập lần cuối ngày 5/5/2021.
[26] https://www.bi.go.id/en/publikasi/peraturan/Documents/PBI_200618_en.pdf, truy cập lần cuối ngày 5/5/2021.
[27] Điều 7 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
[28] Điều 8 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
[29] Điều 29 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
[30] Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương Indonesia còn được phép đặt ra số lượng sở hữu cổ phần nước ngoài trong các tổ chức phi ngân hàng thực hiện các hoạt động tiền điện tử dựa trên một số cân nhắc nhất định, ví dụ như cân nhắc về hồ sơ theo dõi của chính công ty và/hoặc cổ đông của nó hay công nghệ được sử dụng và phạm vi sử dụng tiền điện tử. Yêu cầu này được đặt ra là bởi hiện nay, có khá nhiều nhà cung ứng ví điện tử nước ngoài đã thể hiện sự quan tâm đến thị trường thanh toán kỹ thuật số Indonesia chẳng hạn như Alipay, WeChatPay, WhatsApp Pay,….
[31] Hiện tại có bảy ngân hàng ở Indonesia được phân loại là “BUKU 4”: BNI, Mandiri, BRI, BCA, CIMB Niaga, Bank Danamon và Bank Panin cho ví điện tử xuyên biên giới thông qua Ngân hàng Trung ương Indonesia. WeChat Pay đang hợp tác với CIMB Niaga và vào đầu tháng 1/2020 đã nhận được giấy phép sơ bộ từ Ngân hàng Trung ương Indonesia để hoạt động tại Indonesia. CIMB Niaga sẽ đóng vai trò quản lý và chịu trách nhiệm trước pháp luật Indonesia về các giao dịch được thực hiện qua nền tảng ví điện tử quốc tế. AliPay được thiết lập để hợp tác với Bank of Mandiri và BRI nhưng vẫn chưa nhận được sự chấp thuận của Bank of Indonesia. Samsung Electronics Indonesia đã hợp tác với ví điện tử Dana và GoPay để cung cấp SamsungPay, một ứng dụng sẽ tích hợp hai dịch vụ Ví điện tử. Nền tảng này sẽ cải thiện trải nghiệm của khách hàng bằng cách cung cấp khả năng truy cập dễ dàng vào các ứng dụng thanh toán kỹ thuật số thông qua SamsungPay.
[32] Năm 2009, Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ban hành 11/12/PBI/2009 điều chỉnh tiền điện tử (Electronic Money, e-money) công nhận chính tiền điện tử là một công cụ thanh toán hợp pháp, sau đó được sửa đổi, bổ sung trong văn bản 18/17/PBI/2016. Đến năm 2018, Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ban hành quy định số 20/6/PBI/2018 thay thế cho văn bản năm 2009 về tiền điện tử trong đó quy định chi tiết điều chỉnh riêng về lĩnh vực tiền điện tử. 
[33] Điều 21 Quy định số 18/40/PBI/2016 liên quan đến việc thực hiện xử lý giao dịch thanh toán.
[34] Ngoài ra, trong Quy định số 18 còn quy định thêm rằng ngoài việc áp dụng các biện pháp trừng phạt như đã nêu tại Điều 35, Ngân hàng Trung ương Indonesia còn có thể yêu cầu nhà cung cấp tiến hành hoặc không tiến hành bất cứ điều gì, đình chỉ một phần hoặc tất cả các hoạt động của dịch vụ hệ thống thanh toán, hủy bỏ hoặc thu hồi giấy phép hoặc phê duyệt đã cấp cho nhà cung cấp dịch vụ trong một số trường hợp.
[35] Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước tính đến năm 2020, bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại, Việt Nam có khoảng 37 tổ chức không phải ngân hàng được cấp phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì có tới 34 nhà cung cấp dịch vụ thanh toán bằng ví điện tử, có thể kể đến các tên tuổi nổi tiếng như Momo, Samsung Pay, VTC Pay, Bankplus, Payoo, ZaloPay, 1Pay, Bảo Kim, Vimo, Mobivi, eDong, Ví FPT, eMonkey, Pay365, TopPay, Ngân Lượng, AirPay,… Sự sôi động và hấp dẫn của thị trường ví điện tử cũng đã thu hút không chỉ các công ty công nghệ mà còn cả các ngân hàng thương mại, buộc các ngân hàng đã quen với lối thanh toán truyền thống phải có sự chủ động tham gia vào thị trường này. Một số ngân hàng đã phát triển hệ thống thanh toán ví điện tử của mình như VPBank với Timo, LienVietPostBank với Ví Việt. Trong báo cáo của mình, IDC cũng đã đưa ra dự báo rằng ví điện tử ở Việt Nam sẽ tăng trưởng nhanh so với các quốc gia trong khu vực (IDC (04/2020), Asia in a new era of digital payment, An IDC Whitepaper, https://assets.website-files.com/5c6283f39ea6205dee7cf941/5e9ec6f7e2658e58395ff5e2_NTT_IDC%20Data%20
Whitepaper_Asia%20in%20a%20New%20Era%20of%20Digital%20Payments%5B294%5D.pdf, truy cập lần cuối ngày 25/01/2021).
[36] Khoản 4 Điều 4 số Nghị định 101.
[37] Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 101.
[38] Liên quan đến vấn đề phòng, chống rửa tiền thì hiện nay, đối tượng báo cáo trong quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 không bao gồm tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tức là cũng không bao gồm bên cung ứng dịch vụ ví điện tử.
[39] Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quý I/2020 thì hết quý I/2020, Việt Nam đã có khoảng 13 triệu tài khoản ví điện tử được kích hoạch, sử dụng với tổng số dư ví vào khoảng 1,36 nghìn tỷ đồng; khoảng 225,6 triệu giao dịch được thực hiện thông qua ví điện tử với giá trị lên tới 77,7 nghìn tỷ đồng.
[40] Theo điểm c Khoản 6 Điều 9 Thông tư  số 39.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 (435), tháng 6/2021.)


Ý kiến bạn đọc