Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật

23/09/2021

TS. LÊ THÁI SƠN

Phó Trưởng khoa An ninh điều tra, Học viện An ninh nhân dân.

Tóm tắt: Khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật là những biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng và được áp dụng phổ biến trong thực tiễn điều tra hình sự. Đây cũng là biện pháp mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều bổ sung, sửa đổi so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng từ năm 2018 đến nay cho thấy, các quy định về các biện pháp này còn có một số điểm bất cập, vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Từ khóa: Khám xét, thu giữ, tạm giữ, điều tra hình sự, tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Abstract: Search, seizure, and custody of the documents and objects are important evidence-gathering measures and are commonly applied in criminal investigation practice. This is also a measure with many amendments in the Criminal Procedure Code of 2015 compared to the one in the Criminal Procedure Code of 2003. However, practical enforcement from 2018 up to now shows that the provision on this measure reveals a number of shortcomings and problems that need to be further reviewed for improvements.
Keywords: Search, seizure and custody; criminal investigation; criminal procedure; the Criminal Procedure Code of 2015
THU-GIỮ-TÀI-LIỆU,-HIỆN-VẬT.jpg 
 Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Những điểm mới trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu
Biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật được quy định tại các điều từ Điều 192 đến Điều 200 trong Chương XIII Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015. So với Bộ luật TTHS năm 2003, quy định về khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật trong Bộ luật TTHS năm 2015 có nhiều điểm mới. Cụ thể như sau:
- Bổ sung thêm các đối tượng khám xét:Ngoài các đối tượng khám xét là người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện bưu phẩm giống như các quy định của Điều 140 Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung thêm các đối tượng khám xét bao gồm phương tiện, tài liệu và dữ liệu điện tử và đồng thời sửa đối tượng khám xét từ "chỗ làm việc" thành "nơi làm việc" cho đúng với tính chất, phạm vi của đối tượng khám xét này.
- Bổ sung thêm mục đích khám xét: Bên cạnh quy định việc khám xét nhằm phát hiện, thu thập công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án, phát hiện người bị truy nã giống như các quy định của Điều 140 Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung thêm mục đích của khám xét là nhằm phát hiện, thu thập tài liệu, dữ liệu điện tử, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
- Sửa đổi căn cứ khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm: Khoản 2 Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi căn cứ khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm là "Khi cần phải thu thập tài liệu đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm" thành "Khi có căn cứ nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử".
- Khoản 2 Điều 35 Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền khám xét của những người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; khoản 1 Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền ra lệnh khám xét của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (thuộc Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư...) phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng của các chức danh này.
- Khoản 2 Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 sửa đổi quy định khám xét trong trường hợp "không thể trì hoãn" của khoản 2 Điều 141 Bộ luật TTHS năm 2003 thành "khám xét khẩn cấp" nhằm bảo đảm sự tương thích với biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- Bổ sung quy định Kiểm sát viên có mặt để kiểm sát việc tiến hành khám xét: Khoản 3 Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung quy định: trước khi tiến khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Quy định này nhằm tăng cường sự hiện diện của Kiểm sát viên trong các hoạt động điều tra nhằm kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hành quyền công tố ngay trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Đối với khám xét người, so với Điều 142 Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 194 Bộ luật TTHS năm 2015 đã thay thế cụm từ "đương sự" bằng "người bị khám xét", đồng thời bổ sung tình tiết khi yêu cầu người bị khám xét đưa ra các đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án mà họ "không đưa ra đầy đủ" thì tiến hành khám xét chứ không chỉ là "từ chối không đưa". Cũng tại điều này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung quy định: việc khám xét không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét nhằm bảo vệ quyền của người bị khám xét đồng thời hạn chế những sai sót trong thực tiễn.
- Đối với khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, Điều 195 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định khá đầy đủ về trình tự, thủ tục khám xét đối với từng đối tượng chứ không dẫn chiếu từ các điều luật khác.
Trong khám xét chỗ ở, "người đã thành niên trong gia đình" đã được thay thế bằng "người từ đủ 18 tuổi trở lên”. Ngoài các lý do người bị khám xét hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung thêm "những lý do khác họ không có mặt" mà trong trường hợp không thể trì hoãn việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền và thay thế cụm từ “hai người láng giềng chứng kiến” bằng cụm từ “hai người chứng kiến”; thay thế cụm từ "không được khám chỗ ở vào ban đêm" bằng "không được bắt đầu khám xét chỗ ở vào ban đêm" để tạo thuận lợi cho chủ thể tiến hành khám xét đối với những cuộc khám xét kéo dài từ ban ngày sang ban đêm.
Trong khám xét nơi làm việc, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung trường hợp “không có đại diện của cơ quan, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện của chính quyền nơi khám xét và hai người chứng kiến để bảo đảm tính khách quan”.
Đối với khám xét phương tiện, ngoài những quy định chung về sự có mặt của chủ sở hữu, người quản lý phương tiện và người chứng kiến, Điều 195 Bộ luật TTHS năm 2015 còn quy định “mời người có chuyên môn liên quan đến phương tiện tham gia”.
- Bộ luật TTHS năm 2015 còn bổ sung mới Điều 196 về thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử do dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ mới; trong đó, bao hàm quy định đặc thù như: mời người có chuyên môn liên quan tham gia, sao lưu dữ liệu điện tử và thu các thiết bị ngoại vi...
Ngoài ra, Điều 197 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại "cơ quan, tổ chức bưu chính viễn thông" (thay cho cụm từ "bưu điện" trong Bộ luật TTHS năm 2003)còn bổ sung thủ tục đề nghị xét phê chuẩn của Viện kiểm sát sau khi thu giữ trong trường hợp không thể trì hoãn và các công việc cần tiến hành trong trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh thu giữ.
2. Một số bất cập, vướng mắc và đề xuất tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật
Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2015 về biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật cho thấy, bên cạnh những thuận lợi còn có một số bất cập, vướng mắc cần phải được tiếp tục hoàn thiện sau đây:
Thứ nhất, tên gọi của Chương XIII Bộ luật TTHS năm 2015 là “Khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật tài liệu”. Như vậy, có thể hiểu, Chương này điều chỉnh về hai loại biện pháp là khám xét và thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật. Tuy nhiên, tên và nội dung các điều luật của Chương còn lẫn lộn, chưa rạch ròi giữa hai biện pháp này về mặt căn cứ, đối tượng, trình tự, thủ tục, thẩm quyền..., chưa xác định được thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật là trong khi khám xét hay độc lập với khám xét.
Để khắc phục hạn chế này, tác giả cho rằng, cần phải sửa đổi Chương XIII Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng quy định khám xét và thu giữ, tạm giữ là hai biện pháp khác nhau về đối tượng, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, căn cứ tiến hành; thu giữ, tạm giữ có thể được tiến hành độc lập với khám xét hoặc tiến hành trong khi khám xét. Đối tượng khám xét là người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện; đối tượng thu giữ, tạm giữ là thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử, vật chứng, tài liệu, đồ vật.
Thứ hai, giữa tên gọi và nội dung của Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 không thống nhất. Theo tên gọi của điều luật, đối tượng khám xét bao gồm: người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, về nội dung, Điều 192 chỉ quy định về khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử mà không đề cập đến tài liệu, đồ vật. Mặt khác, theo quy định của điều này thì dữ liệu điện tử là đối tượng khám xét, nhưng dữ liệu điện tử chỉ có thể là đối tượng cần phát hiện, thu thập với tư cách là một loại nguồn của chứng cứ chứ không thể là đối tượng khám xét[1]. Trên thực tiễn cũng chưa có Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nào ra lệnh khám xét đối với đối tượng là dữ liệu điện tử. Vì vậy, tên gọi của Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 cần được sửa đổi và đưa “tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử” ra khỏi diện đối tượng khám xét.
Thứ ba, theo quy định của Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015, mục đích của khám xét là: phát hiện, thu thập công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án, phát hiện người bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân. Trong khi đó, Điều 89 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định "Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án". Như vậy, trong các đối tượng cần phát hiện, thu thập theo mục đích khám xét nêu trên thì: công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có chính là vật chứng. Mặt khác, truy tìm và giải cứu nạn nhân cũng không phải là mục đích khám xét; mục đích khám xét chỉ là phát hiện nạn nhân cũng giống như phát hiện người đang bị truy nã, còn bắt người đang bị truy nã hay giải cứu nạn nhân là biện pháp khác.
Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả cho rằng, cần sửa đổi Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng xác định mục đích khám xét là: nhằm phát hiện, thu thập vật chứng, dữ liệu điện tử, đồ vật, tài liệu khác có liên quan và phát hiện người bị truy nã, nạn nhân.
Thứ tư, khoản 1 Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: "Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 Bộ luật này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành". Quy định này là chưa hợp lý; bởi lẽ, theo quy định của đoạn 1 thì chỉ những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 mới có thẩm quyền khám xét, nhưng theo quy định của đoạn 2 thì cả những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 cũng có quyền ra lệnh khám xét. Những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 bao gồm cấp trưởng, cấp phó và cán bộ điều tra các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, cán bộ điều tra thì không thể ra lệnh khám xét được.
Để khắc phục bất cập này, tác giả cho rằng, cần đổi sửa đổi khoản 1 Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau "Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113, điểm a, b, c, d, đ, e, h khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại điểm a, b, c, d, đ, e, h khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành".
Thứ năm,  quy định của Điều 193 Bộ luật TTHS năm 2015 (Thẩm quyền ra lệnh khám xét) về việc thông báo cho Viện kiểm sát để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc tiến hành khám xét cũng như việc lập biên bản khám xét là không phù hợp; bởi lẽ, đây là những vấn đề thuộc về trình tự, thủ tục khám xét. Hơn nữa, trường hợp các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành khám xét thì không thể có Điều tra viên để thông báo cho Viện kiểm sát được.
 Bộ luật TTHS năm 2015 mới quy định về thủ tục đọc lệnh, đưa cho người bị khám xét đọc lệnh, giải thích quyền, nghĩa vụ, yêu cầu người bị khám xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án (Điều 194); đối với các đối tượng khám xét khác như chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện... thì không quy định và cũng không có viện dẫn như khoản 1 Điều 143 Bộ luật TTHS năm 2003[2]. Thủ tục mời người có chuyên môn liên quan tham gia khám xét cũng chỉ được Bộ luật TTHS năm 2015 đề cập khi khám xét phương tiện hoặc dữ liệu điện tử, còn khi khám xét các đối tượng khác thì không được đề cập.
Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả cho rằng, cần sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng bổ sung quy định chung về trình tự, thủ tục khám xét chung cho tất cả các đối tượng khám xét; trong đó có việc đọc lệnh, đưa cho người bị khám xét đọc lệnh, yêu cầu đưa ra tài liệu, đồ vật có liên quan, thông báo cho Viện kiểm sát để cử Kiểm sát viên kiểm sát, mời người có chuyên môn liên quan, lập biên bản....
Thứ sáu,nhằm tuân thủ nguyên tắc hiến định bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bỏ trường hợp bắt khẩn cấp, đồng thời bổ sung các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp để "thay thế". Tuy nhiên, khoản 3 Điều 194 Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ quy định trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người vũ khí, hung khí, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì không cần có lệnh. Vì vậy, trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, chủ thể có thẩm quyền không được tiến hành khám người mà không có lệnh. Trong khi đó, đây là vấn đề rất cần thiết nhằm nhanh chóng thu giữ vũ khí, hung khí mà đối tượng có thể lợi dụng chống trả hoặc thu thập vật chứng, đồ vật, tài liệu trong người của đối tượng nhằm phục vụ quá trình điều tra. Để khắc phục bất cập này, tác giả cho rằng cần sửa đổi Điều 194 Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng bổ sung trường hợp khám người không cần lệnh khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ bảy, Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định đối tượng khám xét bao gồm: người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử. Trong khi đó, các điều 196, 197, 198 Bộ luật TTHS năm 2015 lại quy định về thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử và tạm giữ tài liệu mà không phải là khám xét. Như vậy, giữa các quy định trên chưa bảo đảm sự thống nhất; bởi lẽ, nếu cùng là đối tượng khám xét thì thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử, đồ vật, tài liệu cần phải quy định chung là việc khám xét chứ không phải là thu giữ, tạm giữ. Để khắc phục bất cập này, tác giả cho rằng, cần sửa đổi Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng đưa thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử, đồ vật, tài liệu ra khỏi diện đối tượng khám xét và chuyển vào đối tượng của thu giữ, tạm giữ./.
Thứ tám, Điều 196 Bộ luật TTHS năm 2015 có tên và nội dung trùng với Điều 107 về thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Hơn nữa, theo quy định của Điều 192 Bộ luật TTHS năm 2015, phương tiện điện tử cũng không phải là đối tượng khám xét độc lập. Bên cạnh đó, Điều 198 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về việc lập biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám xét. Trong khi đó, khi tiến hành khám xét đã lập biên bản khám xét rồi thì lập thêm biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu là không cần thiết. Để khắc phục hạn chế này, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng nhập Điều 196 và Điều 198 Bộ luật TTHS năm 2015 thành một điều luật với tên gọi: "Thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử", trong đó, cần quy định rõ, trường hợp thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khi khám xét thì không cần phải lập biên bản riêng.
 

 


 
[2] Khoản 1 Điều 143 Bộ luật TTHS năm 2003 có quy định việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành theo quy định tại các điều 140, 141, 142 của Bộ luật này như đối với khám người.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 (435), tháng 6/2021.)