Định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên

23/06/2021

TS. NGUYỄN VĂN NGHĨA

Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp,

THS. HOÀNG THỊ THANH HOA

Chấp hành viên, Cơ quan THADS thành phố Hà Nội.

Tóm tắt: Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên có vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định đến hiệu quả của công tác thi hành án. Việc hoàn thiện định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên còn là một trong những cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước phân bổ chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự hàng năm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; mức độ hoàn thành chỉ tiêu thi hành án dân sự cũng là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và xếp loại công chức hàng năm đối với chấp hành viên. Do đó, hoàn thiện các quy định của pháp luật về định mức phân công công việc phù hợp, khoa học cho chấp hành viên sẽ đảm bảo việc phân công công việc hợp lý, tăng tính chủ động của chấp hành viên trong công việc, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Từ khóa: Chấp hành viên, thi hành án dân sự, việc thi hành án dân sự, định mức việc thi hành án dân sự.
Abstract: In civil judgment enforcement activities, the executors play a particularly important role, decisive to effective judgment execution. Improvements of the civil judgment enforcement norms for executors is also one of the grounds for the state agencies to allocate annual civil judgment enforcement quotas and tasks in accordance with requirements of practice; The fulfillment of civil judgment enforcement quotas is also one of the criteria for assessment of task completion and annual ranking for the executors. Therefore, the improvements of the law provisions on appropriate work assignment norms for executors is to ensure the reasonable assignment of tasks, increase the activeness of the executors, thereby contributing to improving the efficiency of civil judgment enforcement.
Keywords: Executor; civil judgment enforcement, civil judgment enforcement case; civil judgment enforcement norm.
 ĐỊNH-MỨC-CÔNG-VIỆC.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái niệm định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động nhằm đảm bảo các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết định khác được thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, không ai khác ngoài lực lượng nòng cốt, chủ lực là chấp hành viên (Điều 17, Điều 21 và Điều 25 Luật sửa đổi, bổ sung điều của Luật THADS năm 2014) và sự tham gia một phần từ lực lượng thừa phát lại thông qua chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến công tác THADS[1]. Với vị trí trung tâm của hoạt động THADS[2], chấp hành viên có vai trò quyết định đối với hiệu quả thi hành án; do đó, việc xác định hợp lý định mức công việc đối với chấp hành viên là một vấn đề cần thiết.
Theo quy định của khoản 9 Điều 3 Luật THADS năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014 (Luật THADS), cách xác định số lượng “việc thi hành án” dựa trên số lượng “quyết định thi hành án”. Quyết định thi hành án (chủ động hoặc theo yêu cầu) là một văn bản do Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền ký ban hành để thi hành một hoặc nhiều khoản trong các bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS. Quyết định của Thủ trưởng cơ quan THADS là căn cứ pháp lý đầu tiên trong hồ sơ thi hành án chủ động hoặc hồ sơ thi hành án theo yêu cầu[3] (đều là bút lục số 01) và là căn cứ để chấp hành viên lập hồ sơ, ban hành các quyết định về THADS để tổ chức thi hành (Điều 36 Luật THADS, Điều 6, 7, 8 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP).
Dưới góc độ ngữ pháp tiếng Việt, “việc THADS” là một từ ghép của từ “việc” và từ “THADS”. “Việc” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là cái phải làm, nói về mặt công sức bỏ ra; hoặc cái làm hàng ngày theo nghề và được trả công; hoặc đây là một từ có tác dụng danh hóa một hoạt động, một sự việc xảy ra (cùng với từ, hoặc tổ hợp từ hay cấu trúc chủ ngữ - vị ngữ đứng sau làm thành một tổ hợp có chức năng)[4]. “THADS” là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định[5]. Từ đó, có thể hiểu, việc THADS là các loại việc được Nhà nước trao cho chấp hành viên, thừa phát lại thực hiện nhằm đảm bảo thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Theo Từ điển tiếng Việt, “định mức” được hiểu là mức quy định về lao động, thời gian, vật liệu, v.v… để hoàn thành một công việc hay sản phẩm[6].
Từ phân tích nêu trên, theo chúng tôi có thể hiểu, “Định mức việc THADS” đối với chấp hành viên là mức quy định số lượng việc THADS mà mỗi chấp hành viên phải thi hành trong một đơn vị thời gian nhất định theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
2. Thực trạng định mức việc THADS đối với chấp hành viên
Một là, số lượng chấp hành viên chưa tương thích với số lượng việc thi hành án dân sự phải thi hành.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS, trong 03 năm (từ 2018 đến năm 2020) tổng số việc và tiền phải thi hành của các cơ quan THADS đều tăng cao, cụ thể: năm 2018, tổng số việc phải thi hành của các cơ quan THADS trong cả nước là 914.083 việc, tương ứng với số tiền phải thi hành là 178.628 tỷ đồng[7]; năm 2019, tổng số việc phải thi hành là 959.508 việc tương ứng với số tiền là 273.748 tỷ đồng[8]; năm 2020, tổng số phải thi hành là 885.833 việc tương ứng với số tiền trên 293.869 tỷ đồng.
Có thể thấy, số lượng việc và tiền phải thi hành án ngày càng tăng cao về số lượng và giá trị, tính chất các vụ việc phải thi hành án ngày càng phức tạp[9], trong khi đó số lượng chấp hành viên chưa đáp ứng được yêu cầu của việc THADS.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục THADS Bộ Tư pháp, số lượng chấp hành viên THADS trong 03 năm gần đây như sau: năm 2018, có 4.112 chấp hành viên, gồm 17 chấp hành viên cao cấp, 1.173 chấp hành viên trung cấp, 2.922 chấp hành viên sơ cấp; năm 2019, có 4.138 chấp hành viên[10] (tăng 26 chấp hành viên so với năm 2018), trong đó có 29 chấp hành viên cao cấp (chiếm khoảng 0,7%), 1.460 chấp hành viên trung cấp (chiếm khoảng 35,3%), 2.649 chấp hành viên sơ cấp (chiếm khoảng 64%); năm 2020, có 4.099 chấp hành viên[11] (giảm 39 chấp hành viên so với năm 2019), trong đó có 34 chấp hành viên cao cấp (chiếm 0,8%), 1382 chấp hành viên trung cấp (chiếm 33,7%) và 2683 chấp hành viên sơ cấp (chiếm 65,5%).
Tỷ lệ bình quân số việc THADS phải thi hành trên mỗi chấp hành viên cụ thể như sau: năm 2018 là 222 việc, tương ứng với số tiền 43 tỷ đồng/ chấp hành viên/năm; năm 2019 là 232 việc, tương ứng với số tiền 66 tỷ đồng/ chấp hành viên/năm; năm 2020 là 216 việc, tương ứng với 72 tỷ đồng/ chấp hành viên /năm. Nếu tính tỷ lệ bình quân số việc THADS mỗi chấp hành viên thụ lý mỗi năm trong 03 năm qua (từ năm 2018 đến hết năm 2020) là 223 việc (tương ứng với số tiền là 60 tỷ đồng/ chấp hành viên/năm.
Thực trạng nêu trên đã đặt ngành THADS đứng trước sức ép rất lớn về tình trạng quá tải trong công việc, đặc biệt là đối với chấp hành viên ở những tỉnh, thành phố có lượng việc THADS lớn. Do đó, nghiên cứu để đưa ra định mức công việc phù hợp làm căn cứ phân công công việc cho chấp hành viên một cách khoa học để tổ chức thi hành có hiệu quả bản án, quyết định đang là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS trước yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, số lượng biên chế phân bổ ngày càng giảm.
Theo thống kê của Tổng cục THADS, năm 2018, số lượng biên chế được phân bổ cho toàn hệ thống THADS là 9.488 biên chế[12] (trong đó, Tổng cục THADS 175 biên chế; các cơ quan THADS địa phương 9.313 biên chế), giảm 169 biên chế so với năm 2017; năm 2019, số lượng biên chế được phân bổ cho toàn hệ thống THADS là 9.288 biên chế[13] (trong đó, Tổng cục THADS 175 biên chế; các cơ quan THADS địa phương 9.113 biên chế), giảm 200 biên chế so với năm 2018; năm 2020, số lượng biên chế được phân bổ cho toàn hệ thống THADS là 9.088 biên chế[14] (trong đó, Tổng cục THADS 172 biên chế; các cơ quan THADS địa phương 8.916 biên chế), giảm 201 biên chế so với năm 2019.
Tình trạng một số cơ quan THADS thiếu biên chế để bố trí công việc theo đề án vị trí việc làm dẫn đến nhiều cơ quan THADS đang chịu áp lực rất lớn do số lượng việc THADS phải thi hành tăng lên nhanh chóng (cả về số việc cũ năm trước chuyển sang và số việc THADS thụ lý mới) với tính chất ngày càng phức tạp hơn và giá trị thi hành lớn, đặc biệt lớn. Trong khi đó, thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, yêu cầu hệ thống THADS từ năm 2016 đến năm 2021 phải cắt giảm 10% biên chế so với năm 2015. Năm 2015, toàn hệ thống THADS được giao 9.957 biên chế, đến năm 2020, được giao 9.088 biên chế, đã giảm 869 biên chế so với năm 2015. Riêng trong 03 năm từ năm 2018 đến năm 2020, trung bình mỗi năm số biên chế phân bổ cho cả hệ thống THADS giảm 190 biên chế.
Việc tinh giản biên chế nói chung cũng ảnh hưởng đến số lượng công việc của chấp hành viên. Theo quy định tại Thông tư số 03/2017/TT-BTP, chấp hành viên được các thư ký giúp việc trong thực hiện các trình tự, thủ tục trong công tác THADS, thi hành án hành chính (THAHC). Trên thực tế, nhiều chấp hành viên không có thư ký giúp việc, chấp hành viên vừa làm nhiệm vụ giải quyết án, vừa làm thêm nhiều công việc hành chính khác như làm các loại báo cáo, hoàn thiện giấy tờ, sổ sách,... dẫn đến quá tải trong công việc, ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án.
Ba là, cơ cấu tỷ lệ giữa các ngạch chấp hành viên còn chênh lệch khá lớn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật THADS, chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định. Chấp hành viên có ba ngạch là chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao cấp. Tiêu chuẩn, năng lực và kinh nghiệm công tác ứng với mỗi ngạch chấp hành viên khác nhau là khác nhau. Theo quy định của Điều 3 và Điều 5 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành THADS, chấp hành viên cao cấp là công chức có chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC cao nhất, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành những vụ việc THADS, THAHC đặc biệt phức tạp, có liên quan đến các ngành, các cấp, các địa phương hoặc có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Cục THADS; chấp hành viên trung cấp, là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc THADS, THAHC phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền của Cục THADS, Chi cục THADS; chấp hành viên sơ cấp, là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức THADS, đôn đốc THAHC đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị không lớn thuộc thẩm quyền thi hành của Cục THADS, Chi cục THADS.
Quy định trên đã thể hiện mối quan hệ giữa các ngạch chấp hành viên với tính chất của việc THADS. Ví dụ, chấp hành viên cao cấp được giao thi hành việc THADS đặc biệt phức tạp, trên phạm vi địa bàn hành chính rộng lớn, việc THADS có yếu tố nước ngoài; chấp hành viên trung cấp được giao thi hành việc THADS phức tạp, giá trị phải thi hành lớn; chấp hành viên sơ cấp được giao thi hành việc THADS đơn giản, giá trị phải thi hành không lớn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản nào chính thức giải thích khái niệm việc THADS đặc biệt phức tạp, phức tạp, hoặc đơn giản, có giá trị thi hành lớn hoặc không lớn. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thi hành án, tính chất khó thi hành hoặc dễ thi hành đối với mỗi việc THADS lại có thể chuyển hóa lẫn nhau, tùy thuộc vào yếu tố khách quan, thái độ hợp tác hoặc chống đối của đương sự. Trên thực tế, những việc THADS phức tạp, giá trị phải thi hành lớn thường tập trung ở những thành phố lớn, như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,… nhưng những địa bàn này lại chưa có đủ số lượng ngạch chấp hành viên cao cấp tương ứng với số lượng việc THADS khó khăn, phức tạp. Nhiều Cục THADS vẫn chưa có người đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thi tuyển, bổ nhiệm vào ngạch chấp hành viên cao cấp. Mặc dù các tỉnh, thành phố lớn thường có số lượng chấp hành viên đông đảo hơn, nhưng cũng không đủ số lượng chấp hành viên để phân công công việc THADS tương ứng với yêu cầu từng ngạch chấp hành viên, đặc biệt là ngạch chấp hành viên cao cấp.
Ngoài ra, với số lượng biên chế và định biên của số lượng chấp hành viên hiện có cũng rất khó để Thủ trưởng các cơ quan THADS phân công công việc theo đúng tiêu chí các ngạch chấp hành viên ứng với tính chất của việc THADS. Các cơ quan THADS cũng không có đủ thông tin để dự báo được trong năm công tác, quý hoặc tháng công tác sẽ có bao nhiêu các loại việc THADS khác nhau phát sinh. Số lượng việc THADS, đặc biệt là việc THADS theo yêu cầu lại còn tùy thuộc vào thời điểm yêu cầu của đương sự mới có căn cứ để ra quyết định thi hành án. Do vậy, để bảo đảm tính ổn định trong hoạt động THADS và kịp thời tổ chức thi hành bản án, quyết định theo đúng trình tự, thủ tục thời gian theo quy định của pháp luật THADS, Thủ trưởng các cơ quan THADS địa phương thường lựa chọn cách phân công công việc cho chấp hành viên theo địa bàn hành chính hơn là theo tính chất của việc THADS, trừ trường hợp việc THADS thực sự rõ ràng là lớn, khó khăn, phức tạp và đơn vị có đủ số lượng ngạch chấp hành viên cao cấp hoặc trung cấp để phân công tổ chức thi hành những loại việc THADS này.
Hiện nay, thực tế việc phân công công việc THADS cho chấp hành viên ở các Chi cục THADS chủ yếu phân theo địa bàn hành chính, dựa vào tổng số chấp hành viên của đơn vị và tổng số xã, phường, thị trấn hoặc bình quân số lượng bản án, quyết định trên từng đơn vị hành chính cấp xã để phân công phụ trách địa bàn cho chấp hành viên. Tuy nhiên, tiêu chí dựa vào tính chất phức tạp, khó khăn hoặc đơn giản của mỗi bản án, quyết định hoặc mỗi loại việc THADS để phân công cho phù hợp với từng ngạch chấp hành viên là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, đánh giá. Mục đích của việc ban hành tiêu chí để phân công công việc nhằm vừa bảo đảm tính công bằng trong sử dụng lao động, vừa bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động THADS.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về định mức công việc đối với chấp hành viên
Một là, nghiên cứu quy định “mức trần” công việc đối với mỗi chấp hành viên. Trong quá trình tổ chức thi hành án, pháp luật quy định rất nhiều trình tự, thủ tục yêu cầu chấp hành viên phải thực hiện nhưng vẫn chưa có kết quả đánh giá một cách chính xác, khoa học và cụ thể về khoảng thời gian cần thiết để chấp hành viên thực hiện hiệu quả mỗi trình tự, thủ tục thi hành án. Ngoài ra, khả năng mỗi ngạch chấp hành viên khác nhau (chấp hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp) trung bình mỗi năm thi hành được bao nhiêu việc THADS (việc THADS đơn giản, phức tạp, trọng điểm, điển hình…) cũng khác nhau nên cần có sự khảo sát, đánh giá. Khi chưa có các kết quả, đánh giá nêu trên rất khó để quy định “mức trần” cho chấp hành viên một năm phải thực thi bao nhiêu vụ việc thi hành án, qua đó giao chỉ tiêu nhiệm vụ THADS, biên chế cũng như đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và năng lực của chấp hành viên. Mặc dù chưa có quy định mức trần nhưng về nguyên tắc, trách nhiệm, quyền lợi, mức lương, phụ cấp của các ngạch chấp hành viên như nhau là ngang nhau, các yêu cầu từ các quy phạm pháp luật phải thực hiện cũng như nhau[15]. Như vậy, chấp hành viên thi hành 100 việc/năm cũng cơ bản giống như chấp hành viên thi hành cao hơn rất nhiều lần, ví dụ 500, 700, 1000… việc/năm. Số lượng công việc nhiều chắc chắn phải chịu rủi ro nhiều, thời gian thì có hạn không thể kéo dài; trình tự, thủ tục, trách nhiệm pháp lý đã được luật hóa. Mặc dù những sai sót trong quá trình tổ chức thi hành án có thể đó là lỗi vô ý, lỗi do khách quan (ví dụ, số lượng, áp lực công việc nhiều dẫn đến không thể thực hiện được các thủ tục thi hành án đúng thời gian luật định…)[16]. Vậy, cơ chế nào để bảo vệ chấp hành viên khi những rủi ro, những vi phạm đó là do quá tải công việc? Đây cũng chính là một “khoảng trống” trong việc bảo vệ chấp hành viên, bảo vệ tính công bằng, tính hợp lý cũng như đánh giá đúng năng lực, hiệu quả công tác và bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm cho chấp hành viên.
Do đó, cần có sự tổng hợp, nghiên cứu một cách có hệ thống theo quy định về vị trí việc làm của chấp hành viên, qua đó đánh giá được đúng những công việc mà chấp hành viên phải thực hiện, thời gian và công sức bỏ ra cho mỗi việc THADS. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là những ưu điểm, tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào các quy trình, thủ tục THADS, cải cách, đổi mới, tinh gọn quy trình, thủ tục THADS. Từ đó, định lượng được tổng số việc THADS mà mỗi chấp hành viên có thể thực hiện được và hoàn thành tốt trong một năm công tác. Trường hợp phải thực hiện nhiều hơn số lượng bình quân thì có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên tăng lương, phụ cấp trách nhiệm hoặc cơ chế giảm thiểu trách nhiệm, rủi ro cho người thực hiện và trường hợp bằng hoặc ít hơn con số trung bình thì phải yêu cầu trách nhiệm cao hơn,…
Hai là,đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của hệ thống THADS. Hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan THADS cần được đổi mới, sắp xếp lại theo hướng: sáp nhập những đơn vị có số lượng việc thi hành án nhỏ, ít để giảm sự cồng kềnh của tổ chức bộ máy; ngược lại, cần tăng biên chế nhằm bổ sung đủ cơ cấu vị trí việc làm, bổ sung cho những đơn vị bị cắt giảm nhiều biên chế trong 5 năm qua, đặc biệt là cho những đơn vị có việc THADS tăng cả về số lượng công việc, tính chất phức tạp và giá trị thi hành lớn. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Do đó, cần có văn bản thay thế, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp cho phù hợp với yêu cầu tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng cục thuộc Bộ theo quy định mới của Nghị định số 101/2020/NĐ-CP.
Ba là,khảo sát thực tiễn tổng số thời gian thực hiện mỗi quy trình thi hành án. Rà soát lại tổng thể thời gian cần thiết để thực hiện quy trình THADS hiệu quả, từ đó điều chỉnh số việc THADS mỗi chấp hành viên phải thi hành hàng năm, hàng tháng để bảo đảm tính khả thi. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền, quyền hạn, trách nhiệm của chấp hành viên để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thiết thực, hiệu quả; tách bạch rõ ràng về mặt quy định liên quan đến quyền hạn của chấp hành viên và điều luật quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên[17]. Theo đó, quy định xác lập “quyền” đối với chấp hành viên thì chấp hành viên có quyền thực hiện trong mức độ, hạn định mà quy phạm pháp luật cho phép; quy định giao “nhiệm vụ, trách nhiệm” cho chấp hành viên thì buộc chấp hành viên phải tuân theo, thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục và trong khoảng thời gian quy định, nếu không thực hiện, thực hiện không đúng, không đủ, không kịp thời thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tùy thuộc vào ý thức trách nhiệm, mức độ lỗi, hậu quả và các nguyên nhân (chủ quan, khách quan).
Bốn là, xây dựng chế độ, chính sách làm thêm giờ, ngoài giờ linh hoạt đối với chấp hành viên, đặc biệt là ở những đơn vị có số lượng việc THADS lớn khi cần phải tăng thời gian để giải quyết án ở những đơn vị trọng điểm, nhiều việc thi hành án phải thi hành.
Năm là,đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Cần chú trọng giải pháp về công tác tổ chức cán bộ như ưu tiên tăng biên chế cho hệ thống THADS, tăng tỷ lệ chấp hành viên trong tổng số biên chế và điều chỉnh hợp lý tương quan tỷ lệ giữa các ngạch chấp hành viên, theo hướng cần tăng số lượng và tỷ lệ ngạch chấp hành viên cao cấp, bảo đảm mỗi Cục THADS có ít nhất từ 01 đến 02 chấp hành viên trở lên phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ thi hành án; tăng cường công tác biệt phái, luân chuyển, điều động,... một cách hợp lý và phù hợp để chấp hành viên có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm, vững vàng hơn về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý về nơi ở, phụ cấp, nâng lương, nâng ngạch, quy hoạch, ưu tiên trong công tác bổ nhiệm đối với những chấp hành viên được luân chuyển, biệt phái.
Sáu là,tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên. Không thể phủ nhận rằng hiệu quả công tác THADS phụ thuộc cơ bản vào năng lực, chất lượng đội ngũ chấp hành viên, trong khi đó chất lượng đội ngũ chấp hành viên lại phụ thuộc phần nhiều vào công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ THADS. Do đó, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ THADS để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, giảm thiểu sai sót trong thực hiện nhiệm vụ là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống pháp luật vẫn còn hạn chế, mâu thuẫn, bất cập và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung./.
  

 


[1] Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS.
[2] Xem thêm: ThS. Đinh Duy Bằng, Một số vấn đề về quyền hạn của chấp hành viên, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=341, truy cập ngày 17/10/2018.
[3] Điều 30 Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS.
[4] Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm 2003, tr. 1115.
[5] Bùi Đức Tiến, Luận án tiến sỹ: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2018, tr. 31-32.
[6] Hoàng Phê, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, năm 1997; tr. 325.
[7] Tổng số phải thi hành bằng tổng số thụ lý trừ đi số vụ việc ủy thác thi hành án.
[8] Báo cáo số 234/BC-TKDLCN ngày 12/10/2020 của Trung tâm thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin, Tổng cục THADS về kết quả THADS 12 tháng năm 2020 (tháng 9 năm 2020).
[9] Báo cáo số 157/BC-TCTHADS ngày 27/6/2019 của Tổng cục THADS tổng kết các nội dung, nhiệm vụ liên quan đến công tác cải cách tư pháp từ năm 2015 đến nay; mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2021-2030, tr. 21-22.
[10] Vụ Tổ chức cán bộ, Tổng cục THADS, Báo cáo số 698/BC-TCCB ngày 10/10/2019 về công tác tổ chức cán bộ của hệ thống THADS từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/9/2019.
[11] Vụ Tổ chức cán bộ, Tổng cục THADS, Báo cáo số 945/TCCB ngày 12/10/2020 về công tác tổ chức cán bộ của hệ thống THADS từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/9/2020.
[12] Theo Quyết định số 521/QĐ-BTP ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
[13] Theo Quyết định số 2473/QĐ-BTP ngày 01/10/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
[14] Theo Quyết định số 2724/QĐ-BTP ngày 05/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
[15] Đặng Đình Quyền, Luận án tiến sỹ luật học: “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 154-156.
[16] ThS. Đinh Duy Bằng và ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên, góc nhìn từ quyền hạn, https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=908, ngày đăng: 23/10/2018.
[17] Xem thêm: ThS. Đinh Duy Bằng và ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên, góc nhìn từ quyền hạn; tlđd.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 03+04 (427+428), tháng 2/2021.)


Ý kiến bạn đọc