Gia nhập WTO- Những cơ hội và thách thức

01/02/2003

Mai Phương Hoa** ThS, Vụ Pháp luật – Văn phòng Quốc hội

Việt Nam đang trên lộ trình gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO sẽ đặt ra rất nhiều cơ hội và thách thức không nhỏ đối với nước ta. Thấy trước và nhìn nhận một cách đúng đắn được những cơ hội và thách thức sẽ giúp chúng ta chuẩn bị tốt hơn khi đàm phán gia nhập tổ chức này
 WTO là tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất thế giới hiện nay, giữ vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Hiện nay, WTO đang kiểm soát trên 90% tổng khối lượng thương mại quốc tế. Chính vì vậy, WTO càng ngày càng thu hút nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, hiện nay xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế  để đẩy mạnh nền kinh tế quốc gia là một mục tiêu mà nhiều quốc gia theo đuổi. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Do đó, chúng ta đã và đang xúc tiến để trở thành một bộ phận cấu thành của tổ chức này. Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO từ ngày12/1/1995 và cho đến nay đã tiến hành nhiều   phiên   họp   với NhómCon cá ba sa Việt Nam bị kiện ở Mỹ. Những thách thức như thế sẽ còn phải gặp nhiều trên đường hội nhập kinh tế buộc chúng ta phải chấp nhận và vượt qua. Trongảnh: Nhân viên Công ty thuỷ sản NAVICO thu hoạch cá ba sa. Liệu họ còn giữ được tâm trạng này sau phán quyết sơ bộ mới đây của Bộ Thương mại Mỹ? công tác của WTO để chuẩn bị cho các cuộc đàm phán cụ thể để gia nhập tổ chức này. Một  thuận  lợi  cho  quá trình đàm phán này là, chúng ta đã ký kết thành công Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ nhằm khai thông một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, việc xin gia nhập WTO là một vấn đề không đơn giản, nhất là đối với các nước đang phát triển có nền kinh tế thị trường còn đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. 
Những cơ hội Nhìn về tổng thể, Việt Nam tham gia WTO sẽ giành được rất nhiều cơ hội thuận lợi cả về trước mắt và lâu dài. Việt Nam sẽ có những cơ hội chủ yếu sau đây:
Thứ nhấtnếu gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN) và những đãi ngộ quốc gia khác (NT) nếu như  chúng được áp dụng từ tất cả các thành viên của WTO. Trong khi đó, nếu chưa phải là thành viên của WTO thì hàng hoá nhập khẩu và một số dịch v từ Việt Nam sẽ bị đánh thuế ở mức phổ thông, thường cao hơn nhiều so với mức MFN mà các thành viên dành cho nhau. Như vậy, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi MFN lâu dài của tất cả các nước thành viên khác, không bị phân biệt đố có ý nghĩa tích cực đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Một trong những mục tiêu của WTO là tạo ra sự hợp tác giữa các thành viên để kiểm soát thương mại quốc tế theo những tiêu chuẩn và luật lệ đã được thông qua nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thị xử  trong  thương  mại  quốc  tế, trường của nhau và trợ giúp cho nhờ đó sẽ tăng được khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, đồng thời góp phần xoá bỏ lý do để các cường quốc thương mại áp dụng biện pháp phân biệtđối xử trong việc ấn định các biện pháp chống bán phá giá và biện pháp tự vệ. Hiệp định thương mại Việt Nam ư Hoa Kỳ cũng có quy định là hai bên sẽ dành cho nhau chế độ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, đây là một thuận lợi rất lớn cho chúng ta khi đàm phán gia
Nếu là thành viên của WTO, chúng ta có thể tranh thủ được cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đa biên để giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế thương mại với  các nước khác, đặc biệt là với các cường  quốc thương mại
nhập WTO, vì Hoa Kỳ là nước có ảnh hưởng lớn nhất về kinh tế trong WTO, có được chế độ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia này, hàng hoá của Việt Nam nhập vào Hoa Kỳ sẽ không còn phải chịu thuế suất cao như trước, do đó khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO cũng như thực hiện quy chế thành viên, các nguyên tắc này chỉ được thực hiện khi các nước có tính đến sự đa dạng của các quan hệ kinh tế ư thương mại của mình với từng nước và tuân theo nguyên tắccó đi có lại. Việt Nam có được hưởng chế độ MFN và NT nhiều hay ítcòn phụ thuộc vào các yếu tố này.
Thứ haigia nhập WTO sẽ dần từng bước ổn định được thị trường xuất khẩu. Điều này  có ý nghĩa tích cực đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Một trong những mục tiêu của WTO là tạo ra sự hợp tác giữa các thành viên để kiểm soát thương mại quốc tế theo những tiêu chuẩn và luật lệ đã được thông qua nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thi trường của nhau và trợgiúp chosự phát triển bên trong của từng nền kinh tế thành viên1. Tại Vòng đàm phán uruguay, các nước đã nhất trí giảm các hàng rào quan thuế và phi quan thuếđể cho hàng hoá được lưu chuyển giữa các nước thành viên một cách thuận lợi. Nếu Việt Nam là thành viên của WTO thì sẽ được hưởng quy chế này để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá của mình, tạo ra mối quan hệ kinh tế rộng mở với thế giới, có thêm cơ hội thu hút vốnđầu tư nước ngoài và giảm thiểunhững rủi ro trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sự ổn định thị trường xuất khẩu này chỉ có thể được bảo đảm trong điều kiện chúng ta phải không ngừng tự nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và khả năng cạnh tranh quốc gia, đồng thời cải tiến dần từng bước hệ thống pháp luật về thương mại cho phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Thứ ba, gia nhập WTO, chúng ta sẽ đẩy nhanh hơn nữa việc xây dựng, điều chỉnh và tăng cường chính sách và cơ chế quản lý, điều hành nền kinh tế của mình cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. WTO là một “sân chơi” với những quy định và “luật chơi” chặt chẽ để kiểm soát thương mại toàn cầu. WTO không ngừng đòi hỏi các quốc gia thành viên phải nâng cao tính minh bạch trong chính sách thương mại của mình. Do đó, đây vừa là một cơ hội nhưng cũng là một thách thức lớnđối với Việt Nam. Một mặt, chúng ta sẽ tạođược một khung pháp lý về kinh tế, thương mại ổn định, góp phần tạo sự yên tâm đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tranh thủ được sự hỗ trợ về tài chính của các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)... Mặt khác, việc này sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát huy tối đa nội lực, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động. Tuy nhiên, việc sửa đổi hệnhư một công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp với các nước phát triển như có thể yêu  cầu Tổng Giám đốc WTO đứng ra làm trung gian, hoà giải, có thể yêu cầu Ban thư ký WTO trợ giúp pháp lý khi có tranh chấp, yêu cầu các nước phát triển phải có thái độ kiềm chế khi áp dụng các biện pháp trả đũa đối với bên thua kiện là nước đang phát triển…
Những thách thức
Bên cạnh những thuận lợi to lớn như đã kể trên, gia nhập WTO không phải là không có những thách thức nhất định đối với Việt Nam.
Thứ nhất, khi đàm phán gia nhập WTO, đểcó thể đổi lấy quyềnthống pháp luật trongnước cho phù hợp với những quy định của WTO không phải ngày một ngày hai mà  tiến  hành ngay
Tỷ trọng của Việt Nam trong thương mại quốc tế chiếm rất ít, vì vậy khả năng trả đũa của chúng ta trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại với một nước phát triển lớn   là hạn chế
được hưởng các lợi ích của tự do hoá thương mại giữa các nước thành viên của WTO, chúng ta phải tuân thủ các luật lệ được, chúng ta cũng sẽ mất một khoảng thời gian không nhỏ để hoàn tất. Chúng ta vẫn còn thiếu một đội ngũ chuyên gia pháp lý giỏi về thương mại quốc tế để hoạch định những chính sách sao cho vừa phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với hoàn cảnh kinh tế ư xã hội của nước ta. Ngoài ra, một số lĩnh vực như thuế, quản lý và kiểm soát giá cả, thương mại dịch vụ… sẽ chịu tác động trực tiếp của công tác này.
Thứ tư, nếu là thành viên của WTO, chúng ta có thể tranh thủ được cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đa biên để giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế thương mại với các nước  khác, đặc biệt là với các cường quốc thương mại. Trong Thoả thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp WTO có nhiều quy định mà các nước đang phát triển như Việt Nam có thể sử dụng của WTO tức là phải mở cửa thị trường, chịu các nhượng bộ về thuế, về cam kết trợ cấp nông nghiệp và thương mại dịch vụ và các nhượng bộ khác. Tất nhiên, những nhượng bộ này sẽ được đàm phán theo nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế của nước ta nhìn chung còn nghèo nàn lạc hậu, việc hội nhập kinh tế với các nước láng giềng và khu vực còn gặp nhiều khó khăn (ví dụ như việc thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)), chứ chưa nói đến việc hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới trong khuôn khổ WTO. Việc phải đương đầu với việc mở cửa thị trường và cắt giảm thuế quan sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước với khả năng  cạnh tranh hạn chế mất đi phần nào sự bảo hộ của Nhà nước, dẫn đến các mặt hàng sản xuất trong nước phải chịu sức ép rất lớn từ hàng hoá đến  từ  các  nước  thành viên WTO. Ngoài ra, như kinh nghiệm của Trung Quốc sau một năm gia nhập WTO, Trung Quốc phải đối mặt với một thách thức lớn về mặt xã hội đó là quá trình phát triển không đồng đều đã tạo ra hố ngăn cách sâu giữa thành thị và nông thôn, dẫn đến việc di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, đồng thời quá trình cải cách kinh tế làm cho hàng chục triệu người mất việc làm2. Do đó, nếu không có bước đi biện pháp trả đũa trong thương mại thì cũng không đem lại hiệu quả và không đạt được một ảnh hưởng tích cực đến cách cư xử của nước mà chúng ta tranh chấp.
Thứ ba, chúng ta sẽ bị WTO yêu cầu phải có những cam kết rất cụ thể về doanh nghiệp nhà nước. Không phải chỉ có Việt Nam mà một   số   nước đã hoặc     đang     tiến và lộ trình thích hợp, Việt Nam cũng sẽ phải đương đầu với những thách thức hiện nay như của Trung Quốc và khả năng nền kinh tế trong nước bước đầu sau khi gia nhập WTO bị suy giảm là  không
WTO không cấm sự hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng các nước thành viên phải bảo đảm nguyên tắc công khai, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước và các công ty tư nhân, giữa công ty trong nước và công ty nước ngoài  trong hoạt động kinh doanh
hành đàm phán để gia nhập WTO như Trung Quốc, Nga, Bungary cũng bị WTO yêu cầu cam kết về vấn đề này. Về mặt chính sách, WTO không cấm thể tránh khỏi.
Thứ haikhi xảy ra tranh chấp với các nước thành viên của WTO, nhất là các nước phát triển, nhìn chung chúng ta ở vị trí yếu thế hơn. Vì chúng ta chưa có đủ đội ngũ chuyên gia pháp lý có chuyên môn và kinh nghiệm để xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế. Ví dụ trong vụ kiện cá tra, cá ba sa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, ngoài đội ngũ chuyên gia pháp lý của Việt Nam, chúng ta còn phải mời thêm các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm để tham gia giải quyết vụ việc và phải chi phí tài chính không nhỏ cho các chuyên gia này. Hơn nữa, tỷ trọng của Việt Nam trong thương mại quốc tế chiếm rất ít, vì vậy khả năng trả đũa của chúng ta trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại với một nước phát triển lớn là hạn chế3. Trong một số trường hợp, sau khi cân nhắc mọi khía cạnh về kinh tế, chính trị, xã hội thì cho dù chúng ta có thắng kiện và áp đặtsự hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng các nước thành viên phải bảo đảm nguyên tắc công khai, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước và các công ty tư nhân, giữa công ty trong nước và công ty nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời WTO cũng sẽ yêu cầu chúng ta đẩy nhanh hơn nữa quá trình tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước và ban hành những luật lệ cho phù hợp với quy định của WTO. Cụ thể, chúng ta sẽ phải chuẩn bị danh mục các lĩnh vực kinh doanh mà các doanh nghiệp nhà nước nắm vai trò chủ đạo, đồng thời công bố công khai thời gian và mức độ ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhà nước theo hướng giảm dần.ở nước ta hiện nay, doanh nghiệp nhà nước chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách và kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước còn có những mặt hạn chế yếu kém như quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, kết quả sản xuất kinh doanh còn chưa tương xứng  với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp4… Chính vì vậy, hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ ư công ty con, đồng thời chúng ta cũng đang dự kiến sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp nhà nước vừa giữ vị trínâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Cho dù vậy, đây vẫn là vấn đề lớn thách thức chúng ta.
*
*           *
Với dự định gia nhập WTO vào năm 2006, Việt Nam đã nhận thức được rằng, toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan mà tất cả các quốc gia đều phải tham gia vì sự phát triển của chính mình. Vấn đề quan trọng là chúng ta phải biết tận dụng các cơ hội, vượt qua các thử thách để xác định đúng bước đi và đưa ra lộ trình thích hợp cho việc hội nhập kinh tế quốc tế./.