Bình luận về các quy định liên quan đến Hợp đồng theo mẫu và Điều kiện giao dịch chung trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

01/03/2015

ĐỖ GIANG NAM

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, NCS tại Khoa Luật, Đại học Utrecht, Hà Lan

Cùng với việc sửa đổi quy định hiện hành về Hợp đồng theo mẫu trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Dự thảo BLDS (sửa đổi) (sau đây gọi là Dự thảo BLDS 2015) đã lần đầu tiên giới thiệu một điều luật riêng biệt về Điều kiện giao dịch chung, điều đó đã phản ánh tầm quan trọng của việc sử dụng các “điều khoản mẫu” của hợp đồng trong các giao dịch hiện đại[1].
Điều khoản mẫu được hiểu là những điều khoản do một bên soạn sẵn để sử dụng, bên còn lại không có khả năng đàm phán thay đổi nội dung mà chỉ có khả năng chấp thuận hoặc từ chối điều khoản (take it or leave it)[2].Việc sử dụng cùng một điều khoản mẫu cho nhiều giao dịch khác nhau đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian đàm phán, qua đó tăng hiệu quả kinh tế của việc giao kết hợp đồng[3]. Chính vì lý do thiết thực này, điều khoản mẫu đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên số với sự phát triển của thương mại điện tử hiện nay.
Tuy nhiên, các điều khoản mẫu cũng tạo ra những thách thức mới đối với lý thuyết truyền thống về hợp đồng vốn được xây dựng dựa trên ý niệm: hợp đồng là kết quả của sự thoả thuận (mặc cả) giữa các bên[4]. Việc các điều khoản mẫu do một bên “áp đặt” cho bên còn lại, có thể dẫn đến tình trạng làm giảm khả năng của bên kia trong việc đạt tới một thoả thuận công bằng. Điều này rõ ràng đi ngược lại với chủ đích lập pháp mà BLDS Việt Nam luôn hướng tới.
1. Các thách thức của việc sử dụng Điều khoản mẫu đối với nguyên tắc tự do hợp đồng
Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam đi liền với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc thiết lập khung pháp luật dân sự làm nền tảng cho nền kinh tế thị trường[5]. Để đáp ứng mục tiêu trên, BLDS năm 1995 và sau đó là BLDS năm 2005 được xây dựng dựa trên nguyên tắc nền tảng của luật hợp đồng cổ điển: nguyên tắc tự do hợp đồng. Nguyên tắc này tiếp tục được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng trong Dự thảo BLDS 2015[6].
Tuy nhiên, khi điều khoản mẫu được sử dụng, các bên không thực sự có cơ hội thương lượng và thoả thuận. Trên thực tế không có hoặc có rất ít cơ hội cho một bên được quyết định nội dung của hợp đồng. Chính điều này đã đặt ra những thách thức lớn đối với lý thuyết truyền thống về hợp đồng cổ điển vốn được xây dựng dựa trên - cơ sở lý luận cho việc xây dựng chế định hợp đồng trong BLDS Việt Nam :
Thứ nhất, việc thiếu khả năng thương lượng và thoả thuận có thể dẫn đến việc một bên không nhận thức được sự tồn tại hay nội dung của điều khoản mẫu do một bên đơn phương đưa ra. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt ra là pháp luật cần can thiệp để quy định những điều kiện nhất định để điều khoản mẫu do một bên đơn phương soạn thảo có thể trở thành một phần của hợp đồng và ràng buộc bên còn lại (the incorporation issue)?
Thứ hai, vấn đề quan trọng hơn là việc sử dụng các điều khoản mẫu có nguy cơ tạo ra hợp đồng bất lợi và thậm chí bất công cho bên còn lại, vậy làm thế nào để đảm bảo tính công bằng trong các trường hợp đó (the issue of control of unfair terms)?[7]
Thứ ba là các điều khoản mẫu sẽ được giải thích như thế nào khi bên còn lại không có khả năng tác động vào quá trình soạn thảo hợp đồng (the interpretation issue)?
2. Khái quát chung về các quy định điều chỉnh “điều khoản mẫu” trong pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, vấn đề điều khoản mẫu được điều chỉnh chủ yếu trong BLDS năm 2005 và Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 (Luật BVNTD 2010)[8].
BLDS năm 2005 đã quy định minh thị một điều khoản về Hợp đồng dân sự theo mẫu, trong đó nhấn mạnh các quy tắc liên quan đến việc giải thích hợp đồng theo hướng bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng mẫu và việc vô hiệu hóa các điều khoản miễn trừ trách nhiệm được sử dụng trong Hợp đồng theo mẫu[9]. Với tư cách là Bộ luật gốc của hệ thống luật tư, có phạm vi điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng[10], nên quy định này của BLDS có thể được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng. Ban soạn thảo Luật BVNTD 2010 đã lập luận rằng, mặc dù một số vấn đề về điều khoản mẫu đã được điều chỉnh trong BLDS năm 2005, nhưng các quy định đó chưa đủ khả năng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[11]. Vì vậy, Luật BVNTD 2010 đã được xây dựng với những quy định chi tiết hơn để điều chỉnh điều khoản mẫu. Xét một cách khái quát, các quy định đã bao phủ hầu hết các vấn đề quan trọng liên quan như: vấn đề giải thích điều khoản mẫu[12], vô hiệu hoá các điều khoản không công bằng[13], hay vấn đề đăng ký bắt buộc đối với các hợp đồng mẫu và các điều kiện giao dịch chung áp dụng với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu[14].
Tuy nhiên, như đã nêu, Luật BVNTD 2010 chỉ áp dụng đối với các giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, trong khi đó hợp đồng theo mẫu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các loại giao dịch khác, nên có nhiều lập luận rằng, BLDS năm 2005 với tư cách là Bộ luật gốc, được áp dụng đối với tất cả các giao dịch, cần phải được sửa đổi để điều chỉnh tốt hơn các điều khoản mẫu[15]. Mặc dù vậy, trái với kỳ vọng, các quy định điều chỉnh điều khoản mẫu chỉ được cải cách ở hai điểm cơ bản: Thứ nhất, dựa trên các quy định của Luật BVNTD 2010, Dự thảo BLDS năm 2015 lần đầu tiên đưa ra điều khoản mới về Điều kiện giao dịch chung; Thứ hai, quy định về Hợp đồng mẫu liên quan đến vấn đề vô hiệu hoá các điều khoản loại trừ trách nhiệm đã được sửa đổi theo hướng chuyển từ quy phạm tuỳ nghi sang quy phạm mệnh lệnh[16].
Trong Dự thảo BLDS 2015, Điều 426 về Hợp đồng theo mẫu tiếp tục được định nghĩa giống với Điều 407 của BLDS năm 2005: Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Trong khi đó, Điều 428 Dự thảo BLDS 2015 lần đầu tiên quy định về Điều kiện giao dịch chung trong BLDS, đã định nghĩa: “Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho các bên được họ đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này”.
Do khái niệm Điều kiện giao dịch chung trong Dự thảo BLDS 2015 chủ yếu dựa trên ý tưởng của Luật BVNTD 2010 nên việc tham khảo các quy định của Luật BVNTD 2010 là hết sức cần thiết để hiểu nội hàm của khái niệm này cũng như mối tương quan với quy định về Hợp đồng theo mẫu. Theo đó, trái với định nghĩa tương đối phức tạp trong BLDS năm 2005, Luật BVNTD 2010 đưa ra định nghĩa đơn giản và dễ hiểu hơn về Hợp đồng theo mẫu và Điều kiện giao dịch chung. Theo đoạn 3 Điều 3, Hợp đồng theo mẫu được định nghĩa:“Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng”. Đoạn 5 Điều 3 lần đầu tiên giới thiệu khái niệm “Điều kiện giao dịch chung” trong hệ thống pháp luật Việt Nam, theo đó, “Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng”.
Theo một thành viên của Ban soạn thảo Luật BVNTD 2010, Điều kiện giao dịch chung có ba đặc trưng cơ bản: (i) là những quy định, quy tắc, điều kiện do thương nhân đơn phương ban hành; (ii) được áp dụng chủ yếu cho người tiêu dùng, và (iii) điều kiện giao dịch chung áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng nhiều lần[17]. Ngoài ra, điều kiện giao dịch chung có thể được trình bày dưới nhiều dạng thức khác nhau, và một trong những dạng thức cần quan tâm là hợp đồng mẫu[18]. Vì vậy, có thể lập luận rằng, theo cách hiểu của Luật BVNTD 2010, Điều kiện giao dịch chung là các quy tắc và quy định do bên cung cấp dịch vụ, hàng hoá đơn phương tuyên bố và được áp dụng đối với người tiêu dùng bất kể hình thức trình bày của các quy tắc này. Sự khác biệt giữa Điều kiện giao dịch chung và Hợp đồng theo mẫu ở chỗ, các điều kiện giao dịch chung, thông thường không nằm ngay trong bản hợp đồng, nó có thể được quy định trong các văn bản riêng miễn là được bên cung cấp dịch vụ công bố công khai.
Mặc dù có sự khác biệt giữa khái niệm Hợp đồng theo mẫu và Điều kiện giao dịch chung, nhưng, điều quan trọng hơn cần nhấn mạnh là cả hai khái niệm này đều cùng chỉ đến một hiện tượng khi mà các điều khoản mẫu do một bên đơn phương soạn thảo hoặc công bố và được sử dụng trên thực tế với đối tác mà không cần có sự thoả thuận, mặc cả về nội dung của điều khoản mẫu đó. Bình luận số 2 của Điều 2.1.19 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng Thương mại quốc tế đã miêu tả một cách chính xác đặc trưng đó như sau:
Yếu tố quyết định không phải là hình thức trong đó các điều khoản này được trình bày (ví dụ: các điều khoản này được chứa đựng trong văn bản riêng hay trong chính hợp đồng; các điều khoản này được ban hành dưới dạng bản in sẵn hay chỉ được lưu trữ online), cũng không phải người soạn thảo các điều khoản mẫu (chính là một trong các bên, hay hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp…), hay số lượng (bao gồm toàn bộ các điều khoản liên quan đến tất cả các khía cạnh liên quan của hợp đồng hay chỉ một hay hai điều khoản, chẳng hạn điều khoản miễn trừ trách nhiệm hoặc điều khoản trọng tài). Yếu tố quyết định là việc thực tế các điều khoản này đã được soạn sẵn để sử dụng chung, nhiều lần lặp đi lặp lại và trong trường hợp đó, được sử dụng thực sự bởi một bên không dựa trên sự thương lượng với phía bên kia[19].
3. Điều kiện để điều khoản mẫu trở thành một phần của hợp đồng
Vấn đề quan trọng đầu tiên liên quan đến việc điều chỉnh điều khoản mẫu đó là trong điều kiện nào thì điều khoản mẫu có thể trở thành một phần của hợp đồng. Theo lý thuyết truyền thống về giao kết hợp đồng, để một điều khoản mẫu do một bên đơn phương soạn thảo trở thành một phần của hợp đồng thì điều khoản đó phải được chấp nhận bởi phía bên kia. Tuy nhiên, như đã đề cập, trong rất nhiều tình huống, phía bên kia mặc dù chấp nhận lời đề nghị, nhưng không có khả năng biết đến sự tồn tại của tất cả các hợp đồng mẫu, bởi các điều khoản này không nhất thiết hiện diện trong văn bản hợp đồng, hoặc các điều khoản mẫu được trình bày dưới dạng thức mà bên được đề nghị bình thường không ngờ tới. Do đó, (i) liệu việc một bên chỉ dẫn chiếu đến sự tồn tại của điều khoản mẫu có đủ làm cơ sở để biến điều khoản đó trở thành một phần của hợp đồng hay bên đưa ra điều khoản mẫu đó cần phải đáp ứng nghĩa vụ tích cực hơn qua việc cung cấp nội dung các điều khoản đó cho bên còn lại? (ii) trong nhiều hợp đồng thương mại, khi cả hai bên đều đưa ra các điều khoản mẫu của riêng mình, câu hỏi đặt ra là điều khoản nào sẽ trở thành nội dung của hợp đồng?
Liên quan đến câu hỏi thứ nhất, Dự thảo BLDS 2015 mặc dù không đưa ra quy định cụ thể, nhưng ngay định nghĩa của Hợp đồng theo mẫu, đã thể hiện rằng, bên đề nghị phải trao cho bên kia một “thời gian hợp lý” để cân nhắc, trước khi chấp nhận đề nghị hợp đồng. Bên cạnh đó, Dự thảo BLDS 2015 cũng quy định tương đối rõ là “điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó”[20]. Cách tiếp cận này về cơ bản cũng tương tự các quy định của các BLDS hiện đại khác. Ví dụ, mục 2 Điều 305 BLDS Đức quy định ba điều kiện cần được đáp ứng để biến điều khoản mẫu trở thành một phần của hợp đồng: (i) Bên ban hành điều khoản mẫu cần phải công khai lưu ý bên còn lại về sự tồn tại của điều khoản mẫu; (ii) Bên ban hành điều khoản mẫu cần phải tính đến bất kỳ hạn chế về mặt thể chất nào của bên kia mà bên ban hành có thể nhận thức được có thể ảnh hưởng đến cơ hội xem xét nội dung của điều khoản mẫu, và (iii) Bên còn lại phải chấp nhận trước rằng các điều khoản mẫu cụ thể sẽ điều chỉnh một loại giao dịch pháp lý nhất định[21]. BLDS Hà Lan cũng có cách tiếp cận tương tự khi Điều 6:233 quy định rằng, việc áp dụng điều khoản mẫu sẽ bị vô hiệu nếu bên ban hành không trao cho bên còn lại cơ hội hợp lý (a reasonable opportunity) để nhận thức được nội dung của điều khoản mẫu đó[22].
Như vậy, pháp luật Đức, Hà Lan dường như quy định minh bạch và chi tiết hơn về nghĩa vụ của bên đưa ra điều khoản mẫu đối với bên còn lại. Triết lý cơ bản của những quy định này là việc buộc người sử dụng điều khoản mẫu không chỉ tạo ra cho phía đối tác “thời gian hợp lý” để nhận biết sự tồn tại của điều khoản đó mà còn phải có những nghĩa vụ tích cực hơn trong việc xem xét cả hoàn cảnh của bên đối tác, mục đích chính là trao cho họ một “cơ hội hợp lý” để hiểu biết và đánh giá về nội dung của điều khoản đó[23]. Các quy định trong Dự thảo BLDS 2015 dường như cũng phản ánh triết lý trên, nhưng với cách thiết kế có phần trừu tượng như hiện nay, một khoảng trống lớn sẽ dành cho việc giải thích của Toà án trong tương lai.
Liên quan đến câu hỏi thứ hai, trong các hợp đồng thương mại, ngày càng có nhiều tình huống cả hai bên đều sử dụng các điều khoản mẫu của riêng mình khi đàm phán giao kết hợp đồng. Hiện tượng này thường được gọi là “battle of form - xung đột giữa các hợp đồng mẫu”[24]. Tuy nhiên, bất kể sự phổ biến của hiện tượng trên, Dự thảo BLDS 2015 đã chưa đưa ra được bất kỳ cải cách nào so với BLDS hiện hành. Vì vậy, khi xử lý xung đột giữa các hợp đồng mẫu, một số điều khoản liên quan đến lý thuyết truyền thống về giao kết hợp đồng trong BLDS năm 2005 cần được phân tích cẩn trọng.
Theo Điều 415 Dự thảo BLDS 2015 (tương ứng với Điều 395 của BLDS 2005), nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng đưa ra các điều khoản mới hoặc sửa đổi đề nghị, bên được đề nghị được coi là đã đưa ra một đề nghị hoàn toàn mới. Theo đó, bên đề nghị ban đầu lại trở thành bên được đề nghị, có quyền chấp nhận hay từ chối đề nghị mới (counter-offer). Do vậy, khi áp dụng quy định này cho các trường hợp liên quan đến điều khoản mẫu, nhiều khả năng bên nào dẫn chiếu đến điều khoản mẫu cuối cùng của quá trình giao kết sẽ là bên thắng thế. Giải pháp này rất gần với học thuyết “dẫn chiếu lần cuối” (last shot) trong pháp luật Anh[25]. Mặt khác, một số quốc gia như Hà Lan đã đưa ra giải pháp khác. Theo đó, nếu đề nghị và chấp nhận đề nghị dẫn chiếu đến các điều khoản mẫu khác nhau, sự dẫn chiếu sau sẽ không có hiệu lực[26]. Học thuyết này còn được gọi là học thuyết “dẫn chiếu đầu tiên” (first shot)[27].
Tuy nhiên, cả hai học thuyết này đều có nhược điểm là trong trường hợp các bên trải qua một quá trình giao kết hợp đồng kéo dài và phức tạp, rất khó để xác định bên nào là bên đưa ra đề nghị hay chấp nhận sau cùng. Trong bối cảnh đó, học thuyết “loại trừ” (knock-out) theo như cách tiếp cận của Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế[28] hay Dự thảo Khung tham chiếu chung để xây dựng BLDS chung châu Âu (Draft Common Frame of Reference)[29] được coi là cách tiếp cận tối ưu hơn. Theo những quy định này, các điều khoản mẫu được dẫn chiếu chỉ được áp dụng và có hiệu lực nếu các điều khoản này tương tự nhau về mặt nội dung, và không điều khoản nào được áp dụng nếu xung đột nhau[30]. Do vậy, Dự thảo BLDS 2015 có lẽ nên tham khảo mô hình trên để thiết kế một giải pháp hợp lý và rõ ràng hơn cho vấn đề này.
4. Cơ chế kiểm soát tính công bằng của nội dung điều khoản mẫu
Một khi các điều khoản mẫu đã thoả mãn các điều kiện để trở thành một phần của hợp đồng, rất nhiều hệ thống pháp luật thường đưa ra một cơ chế tiếp theo để kiểm soát tính công bằng đối với nội dung của các điều khoản mẫu đó. Về cơ bản, có hai mô hình chủ yếu được áp dụng để lý giải nguyên nhân tại sao cần phải kiểm soát tính công bằng trong hợp đồng mẫu: học thuyết về chi phí giao dịch và học thuyết về lạm dụng vị thế[31].
Học thuyết về chi phí giao dịch: Học thuyết này nhấn mạnh đến bản chất của hợp đồng mẫu khi có sự bất cân xứng về chi phí giao dịch (transaction costs) giữa bên ban hành điều khoản mẫu và bên còn lại. Vì điều khoản mẫu có thể được sử dụng lặp đi lặp lại cho nhiều giao dịch khác nhau, bên ban hành điều khoản mẫu có thể phân tán chi phí đầu tư cho việc soạn thảo hợp đồng. Trong khi đó, do chỉ tham gia giao dịch một lần, bên còn lại sẽ không có động cơ để trả chi phí tương ứng với phía bên kia nhằm thu thập những thông tin cần thiết cho quá trình thương lượng hợp đồng. Vì nguyên nhân đó, luôn tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa bên ban hành điều khoản mẫu và bên đối tác[32]. Do đó, việc sử dụng điều khoản mẫu thường dẫn đến hệ quả là tước đoạt khả năng của một bên trong việc thương thảo nhằm đạt đến một điều khoản công bằng. Bên cạnh đó, vì thiếu thông tin và động cơ để đàm phán từng nội dung của điều khoản mẫu, phía bên kia mà tiêu biểu là người tiêu dùng sẽ dần dần hình thành tâm lý bỏ mặc, không quan tâm đọc, tìm hiểu nội dung của điều khoản đó nữa. Hậu quả kéo theo của hiện tượng này là, nếu người tiêu dùng không có thói quen đọc điều khoản mẫu, bên cung cấp điều khoản mẫu cũng không có động lực cạnh tranh để thiết kế điều khoản mẫu tốt hơn, hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng. Các doanh nghiệp khác, ban đầu cung cấp các điều khoản mẫu tương đối tốt, chứng kiến hiện tượng đó, sẽ dần dần loại bỏ điều khoản công bằng, thay vào đó là điều khoản bất công cho người tiêu dùng. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ mở rộng ra toàn bộ thị trường, dẫn đến sự “thất bại của thị trường” theo một hiện tượng mà George Arthur Akerlof - kinh tế gia đoạt giải Nobel năm 2001 - gọi là “market for lemons”[33], trong đó chất lượng điều khoản mẫu ngày càng giảm đi theo hướng bất lợi cho người tiêu dùng[34]. Chính điều đó là lý do tại sao cần phải có sự kiểm soát từ phía nhà nước để đảm bảo tính công bằng trong nội dung các điều khoản mẫu.
Học thuyết về lạm dụng vị thế: Học thuyết này dựa trên khái niệm về sự chênh lệch về vị thế thương lượng giữa các bên (inequality of bargaining power). Theo đó, trái với học thuyết về chi phí giao dịch, nguyên nhân sâu xa đằng sau việc kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu không phải nằm ở bản chất của hợp đồng mẫu mà nhấn mạnh đến nhu cầu bảo vệ một nhóm người xác định cụ thể - người tiêu dùng là bên thường được coi là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng với doanh nghiệp[35]. Do có lợi thế hơn về mặt vị thế kinh tế, xã hội và tâm lý, doanh nghiệp thường có khả năng đơn phương áp đặt các điều khoản do mình soạn thảo gây bất lợi cho người tiêu dùng. Các đạo luật về kiểm soát tính công bằng của hợp đồng được thiết kế dựa trên một nguyên tắc mới của luật hợp đồng hiện đại - nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng[36].
Ở Việt Nam, với sự hiện diện của các quy tắc điều chỉnh điều khoản mẫu trong BLDS và Luật BVNTD, dường như có bóng dáng của cả hai cách tiếp cận trên. Một mặt, rõ ràng Luật BVNTD 2004 đã được xây dựng dựa trên lý thuyết về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng với tư cách là một bên yếu thế nhằm chống lại các điều khoản bất công được áp dụng bởi phía doanh nghiệp. Chính vì vậy, Điều 16 Luật BVNTD 2010 đã liệt kê chín loại điều khoản mẫu sẽ đương nhiên không có hiệu lực nếu được áp dụng với người tiêu dùng. Mặt khác, do BLDS năm 2005 cũng như Dự thảo BLDS 2015 đều được xây dựng dựa trên ý tưởng: hợp đồng là kết quả của sự thương lượng tự do và bình đẳng giữa các bên, nên có sự kiểm soát tính công bằng trong hợp đồng nhằm hướng tới giải quyết những thất bại của thị trường như cách tiếp cận của học thuyết chi phí giao dịch. Thực tế, BLDS năm 2005 hiện mới chỉ giới hạn sự kiểm soát đối với một số điều khoản mẫu rất hạn hữu, theo đó bất cứ điều khoản mang tính “loại trừ trách nhiệm”[37] nào được đưa ra trong hợp đồng theo mẫu sẽ đều bị vô hiệu, trừ khi các bên có thỏa thuận khác, và như đã đề cập, quy phạm này có phạm vi áp dụng là tất cả các loại hợp đồng.[38] Dự thảo BLDS 2015 lần đầu tiên đưa ra một điều khoản tương tự liên quan đến điều kiện giao dịch chung[39]. Tuy nhiên, quy định này cũng chỉ được áp dụng cho các điều khoản mang tính loại trừ trách nhiệm.[40] Do đó, đây không thể coi là một bước tiến quan trọng về điều chỉnh điều khoản mẫu trong luật hợp đồng Việt Nam.
Xét từ góc độ luật so sánh, tình trạng hiện thời của pháp luật Việt Nam khá giống pháp luật Anh. Một mặt, quyết định của Dự thảo BLDS 2015 tiếp tục giới hạn phạm vi kiểm soát chỉ đối với các điều khoản mang tính loại trừ trách nhiệm tương tự như phạm vi của Đạo luật về Điều khoản không công bằng (Unfair Contract Terms Act) được thông qua năm 1977 tại Anh[41]. Đạo luật này không cho phép thiết lập một cơ chế kiểm soát chung đối với tính công bằng của hợp đồng, mà chỉ tập trung giới hạn vào các điều khoản loại trừ cả trong các giao dịch tiêu dùng lẫn giao dịch dân sự thương mại. Ngoài phạm vi của Đạo luật này, không có một học thuyết chung nào kiểm soát tính bất công bằng trong quan hệ hợp đồng mà các bên có thể viện dẫn sử dụng được[42]. Mặt khác, Luật BVNTD 2010 có thể so sánh với Đạo luật về Điều khoản không công bằng trong Hợp đồng Tiêu dùng (Unfair Terms in Consumer Contracts Regulations (UTCCR 1999). Đạo luật này được ban hành nhằm thực thi Chỉ thị 93/13/EEC về Điều khoản không công bằng trong hợp đồng tiêu dùng[43]. Quy định về kiểm soát tính không công bằng chỉ giới hạn trong các điều khoản không được trực tiếp thương lượng (not individually negotiated) của hợp đồng tiêu dùng. Tuy nhiên, quy định này bao hàm một điều khoản chung cho phép cơ chế kiểm soát chung đối với tính bất công bằng trong các loại hợp đồng trên.
Mặc dù vậy, nếu phân tích sâu hơn các quy định về điều khoản mẫu, thì có sự khác biệt đáng kể giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Anh[44]. Một trong những khác biệt căn bản nhất là việc thiếu cơ chế chung để kiểm soát tính công bằng của điều khoản mẫu trong pháp luật Việt Nam. Cả Dự thảo BLDS 2015, BLDS năm 2005 và Luật BVNTD 2010 mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra danh mục một hay một số điều khoản mẫu được coi là đương nhiên vô hiệu. Về nguyên tắc, quyết định ban hành các quy định rõ ràng dưới dạng một danh mục chi tiết như cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam sẽ mang lại một số lợi ích như giảm chi phí tiếp cận cho người tiêu dùng hay giúp người ban hành điều khoản mẫu có thể tự kiểm soát tính công bằng của các điều khoản do mình đưa ra[45]. Những quy định này rất có ích trong việc thúc đẩy một cơ chế ngăn chặn việc áp dụng các điều khoản không công bằng mà không cần đợi có sự can thiệp của toà án hay cơ quan hành chính[46]. Tuy nhiên, việc thiếu vắng một điều khoản chung đồng nghĩa với việc thiếu vắng một công cụ quan trọng để thiết lập một chuẩn mực về tính công bằng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, cũng như đảm bảo tính linh hoạt của cơ chế kiểm soát trước sự thay đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội.[47] Kinh nghiệm từ luật so sánh cho thấy, một cơ chế phổ biến và hữu hiệu hơn để kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu là sự kết hợp giữa một điều khoản chung, trong đó đưa ra các tiêu chí khái quát đánh giá tính công bằng và danh mục các điều khoản đương nhiên vô hiệu (blacklist) và/hoặc danh mục các điều khoản được cho là vô hiệu trừ khi các bên chứng minh ngược lại (grey list). Ví dụ như trong pháp luật Đức, BLDS thiết lập cơ chế kiểm soát gồm có điều khoản chung (được quy định tại Điều 307) và danh mục các điều khoản bị coi là vô hiệu, hay đương nhiên vô hiệu (được quy định tại Điều 308 và Điều 309)
Mô hình kiểm soát của Chỉ thị 93/13/EEC về các điều khoản không công bằng tronghợp đồng tiêu dùng
Hộp 1: Chỉ thị số 93/13/EEC về các Điều khoản không công bằng là một trong những đạo luật nổi tiếng nhất về kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu, nên được xem xét như là một kinh nghiệm lập pháp quý báu để thiết lập một cơ chế hoàn hảo hơn trong việc kiểm soát hợp đồng mẫu trong pháp luật Việt Nam. Đây là thành quả nỗ lực của Uỷ ban châu Âu nhằm điều chỉnh toàn bộ các hợp đồng tiêu dùng để đảm bảo yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng ở mức tối thiểu bằng việc yêu cầu tất cả các nước thành viên phải loại bỏ các điều khoản bất công được sử dụng cho hợp đồng. Theo đó, cơ chế đánh giá về tính không công bằng của các điều khoản mẫu được quy định tại Điều 3 và 4 của Chỉ thị. Điều 3 thiết lập một điều khoản chung, sau đó được làm rõ bởi phụ lục của Chỉ thị đi kèm danh mục các điều khoản được coi là không công bằng. Điều 4 đưa ra các tiêu chí cần được xem xét nhằm đánh giá khi nào một điều khoản được coi là không công bằng. Hơn nữa, trong nhiều án lệ, Toà án Công lý châu Âu đã giải thích các khái niệm chung này để thiết lập các tiêu chí đánh giá cụ thể hơn.
Trọng tâm của Chỉ thị này là Điều 3(1), theo đó định nghĩa khái quát tiêu chí công bằng:
“Một điều khoản không được đơn phương thoả thuận sẽ được coi là bất công [và vô hiệu (TG chú giải)] nếu điều khoản đó đi ngược lại với yêu cầu về sự thiện chí, dẫn đến một sự bất cân xứng đáng kể đối với quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh theo hợp đồng gây bất lợi cho người tiêu dùng”.
Theo đó, tiêu chí đánh giá tính công bằng bao gồm ba yếu tố: (i) sự bất cân xứng đáng kể đối với quyền và nghĩa vụ của các bên; (ii) đi ngược lại với yêu cầu về sự thiện chí và (iii) gây bất lợi cho người tiêu dùng.
Mặc dù lợi thế lớn nhất của điều khoản chung này là tính linh hoạt giúp thích nghi với sự thay đổi của đời sống xã hội, nhưng đồng thời, do các quy tắc pháp lý phải đảm bảo tính xác định, bất cứ một điều khoản chung nào cũng đòi hỏi sự cụ thể hoá thông qua án lệ hoặc các công cụ hỗ trợ khác. Theo Điều 3(3) của Chỉ thị, Phụ lục này bao gồm một danh mục chỉ dẫn mở về các điều khoản được cho là không công bằng. Điều đó có nghĩa là một điều khoản hợp đồng nếu trùng với danh mục này không mặc nhiên được coi là không công bằng. Chính vì vậy, Phụ lục này của Chỉ thị thường được coi là “grey list” chứ không phải là “black list” mà trong đó các điều khoản được coi là đương nhiên vô hiệu.
Từ nghiên cứu so sánh trên cho thấy, nhu cầu can thiệp kiểm soát tính công bằng trong nội dung của các điều khoản mẫu là hết sức cần thiết. Pháp luật Việt Nam hiện nay đang duy trì hai đạo luật độc lập điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, với tư cách là đạo luật gốc của hệ thống luật tư, Dự thảo BLDS 2015 nên quy định cơ chế kiểm soát hiệu quả hơn. Trong cơ chế đó, Dự thảo BLDS 2015, chẳng hạn có thể dựa trên kinh nghiệm của Chỉ thị 93/13/EEC để thiết lập một điều khoản chung trong pháp luật Việt Nam cho phép toà án có thể can thiệp vào các tranh chấp cụ thể nằm ngoài phạm vi danh mục các điều khoản được coi là không công bằng được quy định trong Luật BVNTD 2010 hay trong BLDS năm 2005[48]. Điều khoản chung này quy định các tiêu chí chung nhất để đánh giá tính công bằng của điều khoản mẫu. Điều khoản chung này nên được hỗ trợ, bổ sung danh mục các điều khoản được coi là không công bằng.
5. Giải thích điều khoản mẫu
Khi điều khoản mẫu trở thành nội dung của hợp đồng, có rất nhiều trường hợp điều khoản mẫu cần được giải thích để làm rõ nội hàm của điều khoản đó.
Khoản 2 Điều 426 Dự thảo BLDS 2015 (tương ứng với khoản 2 Điều 407 của BLDS năm 2005) chỉ rõ trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”. Cách tiếp cận về giải thích điều khoản mẫu này của pháp luật Việt Nam cũng được thừa nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật các nước và dựa trên học thuyết cổ điển “contra proferentem”, theo đó, khi điều khoản không có nội dung rõ ràng, thì nên được ưu tiên giải thích theo hướng ngược lại với lợi ích của bên soạn thảo ra điều khoản đó[49].
Trong một số trường hợp, khi có sự mâu thuẫn giữa một điều khoản mẫu và điều khoản do các bên trực tiếp đàm phán, câu hỏi đặt ra là điều khoản nào sẽ có hiệu lực? Pháp luật Việt Nam dường như không có câu trả lời rõ ràng về vấn đề này. Ở nhiều hệ thống tài phán khác, như Đức, điều khoản được các bên soạn thảo sẽ luôn luôn có hiệu lực[50]. Quy tắc này dường như là một điều hiển nhiên khi nó phản ánh ưu thế của ý chí chung của các bên đối với ý định của chỉ một bên, và do đó, nhiều người cho rằng, không nhất thiết phải xây dựng một quy tắc pháp lý rõ ràng để điều chỉnh. Tuy nhiên, cách tiếp cận của pháp luật Đức vẫn hết sức hữu hiệu trong tương lai nếu như toà án phải trả lời câu hỏi: giữa một điều khoản mẫu với một thoả thuận chung của các bên, nhưng chỉ thể hiện dưới hình thức miệng, quy tắc nào sẽ có hiệu lực?
Trong nền kinh tế hiện đại, việc áp dụng những điều khoản mẫu được thể hiện trong Hợp đồng mẫu hay Điều kiện giao dịch chung đã trở thành một hiện tượng hết sức phổ biến. Điều khoản mẫu giúp cho việc giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy hiệu quả kinh tế và sự an toàn pháp lý cho bên ban hành, sử dụng. Tuy nhiên, phía bên đối tác tiếp nhận những điều khoản này có thể phải đối mặt với một thoả thuận không công bằng do họ không có cơ hội và khả năng để ảnh hưởng đến điều khoản mẫu. Chính vì vậy, một cơ chế kiểm soát hữu hiệu cần được thiết lập để điều chỉnh những thách thức mà điều khoản mẫu gây nên.
Từ kinh nghiệm nghiên cứu luật so sánh cho thấy, cơ chế kiểm soát gồm ba giai đoạn nên thiết lập trong Dự thảo BLDS 2015 để đảm bảo tính công bằng của điều khoản mẫu. Thứ nhất, cần thiết lập quy tắc coi nghĩa vụ cung cấp thông tin về sự tồn tại của điều khoản mẫu cho phía bên kia là điều kiện tiên quyết để điều khoản mẫu trở thành nội dung hợp đồng. Thứ hai, cần thiết lập quy tắc kiểm soát tính công bằng trong nội dung của điều khoản mẫu. Cơ chế hữu hiệu nhất nên là sự kết hợp giữa điều khoản chung quy định các tiêu chí để đánh giá tính công bằng và một danh mục các điều khoản được xem như là không công bằng. Thứ ba, cần thiết lập quy tắc giải thích hợp đồng nhấn mạnh việc điều khoản mẫu sẽ được giải thích theo hướng bất lợi cho phía bên soạn thảo điều khoản đó./.

 


* Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
 NCS tại Khoa Luật, Đại học Utrecht, Hà Lan
[1]Thuật ngữ điều khoản mẫu được sử dụng chung để chỉ nội dung của Điều kiện giao dịch chung và Hợp đồng theo mẫu. Phần 2 của bài viết sẽ lý giải tại sao chúng tôi lại lựa chọn cách tiếp cận này.
[2] Xem F. Kessler, Contracts of Adhesion--some Thoughts about Freedom of Contract, 1943 Colum.L.Rev., 629
[3] Xem Gillette, Clayton P., Standard Form Contracts (April 8, 2009. NYU Law and Economics Research Paper No.09-18. http://ssrn.com/abstract=1374990 (truy cập ngày 20/1/2015)
[4] Xem Thomas Wilhelmsson, Standard Form Conditions; in Arthur S. Hartkamp, Towards a European Civil Code, Kluwer Law (2011); 571-586.
[5] Xem thêm John Stanley Gillespie, Transplanting Commercial Law Reform - Developing a 'Rule of Law' in Vietnam Aldershot: Ashgate (2006).
[6]Nội hàm cơ bản của nguyên tắc tự do hợp đồng là quyền tự do của các bên trong việc xác lập hợp đồng, lựa chọn đối tác và các điều khoản của hợp đồng. Chức năng của pháp luật hợp đồng khi đó là thiết lập các cơ chế hữu hiệu để đảm bảo quá trình giao kết hợp đồng và hỗ trợ thực thi các cam kết thỏa thuận đạt được dựa trên sự tự do ý chí của các bên. Nhà nước, thông thường không can thiệp trực tiếp vào nội dung của hợp đồng, bởi vì một khi hợp đồng là kết quả của quá trình tự do thương lượng và thoả thuận giữa các bên có địa vị pháp lý bình đẳng, các điều khoản của hợp đồng được kỳ vọng là kết quả công bằng cho các bên. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do hợp đồng không phải bất biến, nó cũng chứng kiến sự thăng trầm trong suốt 100 năm qua. Xem chi tiết tại Atiyah, P.S. The Rise and Fall of Freedom of Contract (Oxford: Oxford University Press, (1979).
[7] Trong cuốn Towards a European Civil Code, Thomas Wilhemsson cũng khẳng định đây là ba vấn đề quan nhất mà các quy định của BLDS Châu Âu trong tương lai cần phải điều chỉnh. Xem thêm Thomas Wilhelmsson, Standard Form Conditions; sđd,571-586.
[8]Tất nhiên, các quy định về điều khoản mẫu còn hiện diện ở nhiều luật chuyên ngành, chẳng hạn như Luật Kinh doanh bảo hiểm.
[9] Xem Điều 407 BLDS năm 2005.
[10] Xem Điều 1 BLDS năm 2005.
[11] Xem Tờ trình số 28/TTr-CP ngày 8/4/2010 về Dự án Luật Bảo vệ người tiêu dùng.
[12] Điều 15 Luật BVNTD 2010.
[13] Điều 16 Luật BVNTD 2010.
[14] Điều 19 Luật BVNTD và Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chúng.
[15]Xem Tờ trình và Thuyết minh của Dự án BLDS (sửa đổi).
[16] Khoản 3 Điều 407 BLDS 2005 quy định “Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác.” Trong khi đó Dự thảo BLDS 2015 đã loại bỏ cụm từ “trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.
[17] Xem Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng http://www.vca.gov.vn/NewsDetail.aspx?ID=1289&CateID=80 (truy cập ngày 20/1/2015)
[18] Xem Nguyễn Như Phát, nt.
[20] Khoản 2 Điều 428 Dự thảo BLDS 2015
[21] Xem bản dịch tiếng Anh http://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/index.html; truy cập ngày 20/1/2015. Về bình luận liên quan, xem them WENDLER, Michael. "Key aspects of German business law: a practical manual. By Michael Wendler, Bemd Tremml, Bernard Johns Buecher" (2008), 83-85.
[22] Xem bản dịch tiếng Anh của điều khoản này trong BLDS Hà Lan tại http://www.dutchcivillaw.com/legislation/dcctitle6655.htm; truy cập ngày 20/1/2015).
[23]Chẳng hạn, một vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ là việc trong một số trường hợp đặc biệt, ngay cả khi điều khoản mẫu đáp ứng các điều kiện nói trên, các điều khoản này không thể mặc nhiên trở thành một phần của hợp đồng nếu các điều khoản này được cho là các điều khoản bất thường, ngoài mong đợi (surprising terms). Theo Điều 305c BLDS Đức, trong các hoàn cảnh nhất định, đặc biệt xét tới hình thức thể hiện của hợp đồng, điều khoản mẫu bất thường đến mức mà bên còn lại của hợp đồng không bao giờ hình dung đến sự tồn tại của các điều khoản này, sẽ không thể cấu thành một phần của hợp đồng. Xem thêm WENDLER, Michael, Key aspects of German business law: a practical manual. By Michael Wendler, Bemd Tremml, Bernard Johns Buecher", sđd, 86.
[24] Xem Apsey, Lawrence S, Battle of the Forms, Notre Dame L. 34 (1958): 556; Ruhl, Giesela, Battle of the Forms: Comparative and Economic Observations, U. Pa. J. Int'l Econ. L. 24 (2003): 189.
[25] Xem Butler Machine Tool Co. v. ExCello Corporation(England) Ltd [1979] 1 WLR 811, 817, C.A. Xem thêm Treitel, The Law of Contract, paras. 2-019-2-020.
[26] Xem Điều 6:225(3) BLDS Hà Lan. http://www.dutchcivillaw.com/legislation/dcctitle6655.htm; truy cập ngày 20/1/2015.
[27]Xem Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-Nölke. Principles, definitions and model rules of European private law: draft common frame of reference (DCFR). Walter de Gruyter, 2009,358.
[28] Xem Điều 2.1.22.
[29] Xem Điều II 4:209.
[30] Xem thêm Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-Nölke. Principles, definitions and model rules of European private law: draft common frame of reference (DCFR). Walter de Gruyter, 2009.354-358.
[31] Xem Martin Ebers, Unfair Contract Terms Directive (93/13), in: [32] Xem thêm Schäfer, Hans-Bernd, and Patrick C. Leyens. "Judicial control of standard terms and European private law" Economic Analysis of the DCFR–The Work of the Economic Impact Group within the CoPECL Network of Excellence, Munich: Sellier European Law Publishers (2010): 97-119,103.
[33]Xem George Akerlof, The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism, 84 QJ Econ. 488 (1970).
[34] Xem [35] Xem Martijn Hesselink, Marco Loos, Unfair Terms in B2C Contracts,CSECL Working Paper no. 7, 2012.
[36]Xem Ewoud Hondius,The Protection of the Weaker Party in Harmonized European Contract Law: A Synthesis, Journal of Consumer Policy 27: 245-251, 2004.
[37] Điều khoản mang tính loại trừ trách nhiệm được hiểu bao gồm cả điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi của bên kia.
[38] Xem Điều 405 BLDS năm 2005
[39] Khoản 3 Điều 428 Dự thảo BLDS 2015.
[40] Ở góc độ khác, việc Dự thảo BLDS 2015 vô hiệu hóa tất cả các điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong Hợp đồng theo mẫu và Điều kiện giao dịch chung cũng chưa hẳn là cách tiếp cận tối ưu. Ngay từ khi ban hành BLDS 2005, nhiều tác giả đã chứng minh thuyết phục giá trị của một số loại điều khoản miễn trừ. Xem Lê Nết, Góp ý dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi về điều khoản miễn trừ trách nhiệm, Tạp chí Khoa học pháp lý (ĐHL TPHCM), 2005, số 02(27), tr.14-18
[41] Xem Hugh Beale, Unfair Contract Terms Act 1977 [comments], (1978) 5 Brit J Law & Soc 114, 114.
[42] Xem Hugh Beale, nt
[43]Xem nội dung Chỉ thị số 93/13/EEC về các điều khoản không công bằng trong hợp đồng tiêu dùng, OJ 1993L95/29 tại http://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX:31993L0013; truy cập ngày 20/1/2015.
[44] Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngay tại nước Anh, có rất nhiều phê phán về sự tách biệt giữa hai văn bản này. Một mô hình điều chỉnh thống nhất đang được đề xuất và nhận được nhiều sự tán đồng. Xem báo cáo Unfair Contract Term, trong đó đề xuất mô hình hợp nhất http://lawcommission.justice.gov.uk/areas/unfair-terms-in-contracts.htm; truy cập ngày 20/1/2015.
[45] Xem Tjakie Naudé, The use of black and grey lists in unfair contract terms legislation in comparative perspective, 124 (2007) South African Law Journal, 128-164.
[46] Xem Tjakie Naudé, nt
[47] Thực tế, khoản 3 Điều 428 Dự thảo BLDS 2015 cũng quy định “Điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên”. Tuy nhiên, quy định này quá trừu tượng, ít có khả năng áp dụng trực tiếp mà dường như chỉ mang tính định hướng cho quy định ngay sau đó về vô hiệu hóa các điều khoản mang tính loại trừ trách nhiệm. Mặc dù vậy, sự hiện diện của nó cũng có thể cho chúng ta suy luận rằng Ban soạn thảo Dự thảo BLDS 2015 quan tâm đến nhu cầu bảo vệ tính bình đẳng, công bằng trong điều kiện giao dịch chung.
[48] Thực ra, văn bản lý tưởng hơn để BLDS Việt Nam tham chiếu có lẽ là Dự thảo Khung tham chiếu chung để xây dựng BLDS chung châu Âu (Draft Common Frame of Reference), trong đó đề xuất 3 mô hình kiểm soát tính công bằng riêng biệt cho từng loại hợp đồng mẫu giữa thương nhân-thương nhân, thương nhân-người tiêu dùng và giữa người không phải thương nhân với nhau. Tuy nhiên, DCRF như tên gọi vẫn là khung tham chiếu chứ không có hiệu lực thi hành, hơn nữa DCFR được xây dựng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của Chỉ thị số 13/1993. Vì vậy, có thể nói Chỉ thị số 13/1993 hiện nay vẫn là văn bản trực tiếp và ảnh hưởng lớn nhất tới vấn đề điều chỉnh hợp đồng mẫu ở châu Âu.
[49] Xem thêm Boardman, Michelle E. Contra Proferentem: The Allure of Ambiguous BoilerplateMichigan Law Review (2006): 1105-1128; Horton, David. Flipping the Script: Contra Proferentem and Standard Form ContractsU. Colo. L. Rev. 80 (2009): 431.
truy cập ngày 20/1/2015.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5(285), tháng 3/2015)