Vai trò của Quốc hội trong việc quyết định kế hoạch phát triền kinh tế - xã hội

01/01/2016

TS. TRẦN DU LỊCH

Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh.

Một trong mười lăm nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định tại khoản 3 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013 là: “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Bài viết nhằm làm rõ nội hàm của điều khoản trên của Hiến pháp từ thực tiễn hoạt động của Quốc hội và từ kinh nghiệm của bản thân tác giả khi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.  
Untitled_150.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 
1.1 Phân định thẩm quyền của các cấp chính quyền trong việc quyết định nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Theo Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, một trong những quyền hạn và nghĩa vụ của Quốc hội là “quyết định kế hoạch kinh tế - xã hội của đất nước”. Ngoài nội dung trên, chưa có một văn kiện pháp lý nào xác định chi tiết những nội dung thuộc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà Quốc hội có nghĩa vụ và quyền hạn quyết định. Trên thực tế, hoạt động của Quốc hội nước ta đều quyết định nhiều chỉ tiêu về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm dưới hình thức một nghị quyết của Quốc hội; đồng thời điều chỉnh những mục tiêu và nội dung đó khi cần thiết cũng dưới hình thức nghị quyết của Quốc hội. Vấn đề đặt ra là những nội dung nào thuộc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà Quốc hội cần quyết định để vừa phản ánh được quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vừa bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành của Chính phủ, phù hợp với sự vận hành của cơ chế kinh tế thị trường. Vì vậy từ năm 2006, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu cầu: “Phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội”. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có Luật về kế hoạch, nên ngay trong các đạo luật tổ chức Quốc hội, tổ chức Chính phủ mới sửa đổi, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương mới ban hành, cũng chưa phân định rõ những chức năng liên quan đến việc quyết định các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ở mỗi cấp chính quyền như thế nào.
Trong nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm đều có cơ cấu nội dung gồm ba phần chính: (1) đánh giá hiện trạng; (2) xác định mục tiêu phương hướng và chỉ tiêu phát triển; (3) đề ra chính sách giải pháp tổ chức thực thi.
Vấn đề đặt ra ở đây là với thẩm quyền của mình, Quốc hội quyết định tất cả nội dung của kế hoạch hay chỉ quyết định những nội dung gắn liền với thẩm quyền lập pháp của Quốc hội. Thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta cho thấy, chưa có sự phân định rạch ròi về vấn đề này, nên trong thực tế có nhiều trường hợp những quyết định của Quốc hội hoặc không quán xuyến hết các vấn đề quan trọng của đất nước mà cơ quan quyền lực nhà nước phải quyết định nhằm phản ánh được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, hoặc quyết định quá sâu vào công tác điều hành của Chính phủ, hạn chế tính linh hoạt trong điều kiện vận hành của cơ chế kinh tế thị trường.
1.2.Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Quốc hội trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và hàng năm
1.2.1 Nhà nước với tư cách là một trong ba chủ thể của kinh tế thị trường:
Ngày nay trên thế giới không còn một nền kinh tế nào được gọi là nền kinh tế tự do hoàn toàn, mà tất cả các nền kinh tế, dù ở mức độ khác nhau, đều có sự can thiệp của nhà nước vào sự vận hành của thị trường. Chính vì vậy, về mặt lý thuyết đã hình thành lý luận về kinh tế vĩ mô, mà nội dung chính là nhà nước sử dụng các công cụ để điều tiết thị trường. Do đó, người ta thường nói rằng, trong nền kinh tế thị trường có ba chủ thể: (1) người sản xuất (nói chung các chủ thể tạo ra sức cung); (2) người tiêu dùng (nói chung các chủ thể tạo ra sức cầu) và (3) nhà nước (người vừa tham gia vào khối cung, vừa tham gia vào khối cầu, vừa điều tiết cung cầu). Để thực hiện chức năng này, nhà nước thường sử dụng bốn nhóm công cụ:
-   Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hành vi diễn ra trong đời sống kinh tế nhằm tạo ra một trật tự cho các chủ thể tham gia, mà người ta thường gọi là “luật chơi” hay hệ thống pháp luật về kinh tế.
-   Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm định hướng cho sự hoạt động của thị trường và làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách kinh tế. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn còn phản ánh con đường phát triển của một đất nước; sự huy động nguồn lực xã hội bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
-   Hệ thống các chính sách kinh tế, tài chính - thường gọi là kinh tế vĩ mô để tác động vào thị trường hay điều chỉnh tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế phù hợp với mục tiêu của kế hoạch đề ra.
-   Sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để can thiệp vào thị trường, tức là vai trò của kinh tế nhà nước như hàng hóa dịch vụ công cộng.
Nhà nước sử dụng bốn nhóm công cụ trên, với mức độ khác nhau cho từng loại tùy thuộc vào đặc điểm của thị trường, tính chất của thể chế chính trị, lịch sử truyền thống của mỗi nước; đồng thời có sự điều chỉnh ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển.
Thể chế kinh tế thị trường của nước ta có điểm chung của mọi nền kinh tế thị trường, nhưng có những điểm riêng biệt phù hợp với thể chế chính trị và tính đặc thù của nền kinh tế đất nước. Điểm đặc thù nổi bật là nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường, mà chúng ta thường gọi là nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước, tức thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước như: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế và chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tác động đến thị trường chủ yếu thông qua các cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế  v.v..
Có thể nói, chính vai trò của Nhà nước sẽ làm hạn chế những thất bại của thị trường và có khả năng khắc phục những khuyết tật cố hữu của thị trường. Chức năng này càng quan trọng đối với cơ chế thị trường theo mô hình Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu của kinh tế vĩ mô
Khi thiết lập chiến lược, kế hoạch hay sử dụng các chính sách và công cụ phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, người ta thường tập trung vào mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Thông thường khi nói đến mục tiêu kinh tế vĩ mô, người ta thường tập trung vào bốn mục tiêu chính:
-  Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP hay GNP cùng với chỉ tiêu GDP/người vào những mốc thời gian nhất định. Đây là mục tiêu bao trùm nhất của kinh tế vĩ mô, phản ảnh chung nhất về thành tựu phát triển của một nền kinh tế. Tuy chỉ báo này chưa phản ảnh đầy đủ chất lượng của một nền kinh tế, nhưng luôn luôn là chỉ báo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay thất bại của một nền kinh tế.
-   Kiểm soát giá cả thông qua chỉ báo CPI hay thường nói là kiểm soát lạm phát, là chỉ báo quan trọng nhất phản ảnh tính ổn định của kinh tế vĩ mô. Chỉ báo này còn được sử dụng như một công cụ giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với an sinh xã hội.
-   Tạo việc làm mới cho xã hội, kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp là chỉ báo vừa phản ảnh tình trạng của nền kinh tế, vừa phản ảnh tính ổn định về mặt an sinh xã hội. Thông thường ở các nước, đây là chỉ báo rất quan trọng không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị phản ánh năng lực quản lý điều hành của một chính phủ. Số việc làm mới tạo ra một năm còn phản ánh mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa các chính sách kinh tế tài chính với chính sách nhân dụng.
-   Tăng xuất khẩu ròng (lấy kim ngạch xuất khẩu trừ đi kim ngạch nhập khẩu), nhất là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu.
Bốn mục tiêu nêu trên được sử dụng khá phổ biến ở các nước như là những mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô. Những mục tiêu này cũng chính là những sản phẩm đầu ra của quan hệ tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Vai trò của nhà nước thông qua các chính sách và giải pháp kinh tế để tác động đến tổng cung và tổng cầu nhằm tạo được “đầu ra” theo ý muốn, với nguyên tắc: nhà nước không tác động trực tiếp vào chủ thể tạo cung hay tạo cầu, mà tác động vào thị trường (sự vận động của tổng cung và tổng cầu được xem như “hộp đen”) và chính thị trường sẽ tác động đến các chủ thể của nền kinh tế (người sản xuất, người tiêu dùng).
1.2.3. Bốn nhóm công cụ chính sách nhà nước can thiệp vào thị trường.
 Thông thường, để thực hiện bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô như nêu ở phần trên, nhà nước thường sử dụng bốn nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
-   Chính sách tài khóa bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ. Đây là những chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường. Chính sách tài khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ví dụ chính sách tăng chi để kích thích sức cầu của nền kinh tế, hay tăng thuế để hạn chế tiêu dùng.
-  Nhóm các chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết thị trường tài chính, mà trọng tâm là thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định giá cả. Thông thường, chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua các công cụ như: lãi suất, tín dụng, các nghiệp vụ của thị trường mở v.v..
-  Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng và điều tiết khối cầu của nền kinh tế. Chính sách này được sử dụng thường xuyên trong trường hợp nền kinh tế ở trong tình trạng lạm phát hoặc giảm phát.
-  Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, bảo đảm mục tiêu tăng xuất khẩu ròng; đồng thời cũng điều tiết tổng cung và tổng cầu nội địa của nền kinh tế.
Bốn nhóm công cụ chính sách nêu trên tùy theo tính chất của một nền kinh tế và trong mỗi giai đoạn nhất định được điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1.3. Mục tiêu tổng hợp kinh tế-xã hội được thể hiện theo quan điểm phát triển bền vững
Ngày nay, hầu như mọi quốc gia tham gia vào mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đều đặt mục tiêu phát triển kinh tế theo hướng bền vững, bao gồm ba nhóm mục tiêu:
-   Tăng trưởng kinh tế,
-   Tiến bộ xã hội,
-   Bảo vệ môi trường.
Ba nhóm mục tiêu nêu trên là xương sống của những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà một nền kinh tế được gọi là có phát triển, nếu giải quyết được hài hòa cả ba mục tiêu này. Chỉ báo chung nhất phản ánh tính hài hòa của ba mục tiêu nói trên - mà hiện nay được sử dụng khá phổ biến - là chỉ số phát triển con người (HDI). Bởi vì xét cho cùng, sự phát triển con người mới là mục tiêu, còn các chỉ báo khác cũng chỉ là những phương tiện.
Trong nhiều năm qua, trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của nước ta đều đặt ra các mục tiêu phát triển dựa trên ba nhóm mục tiêu nêu trên, đặc biệt là thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, mà nước ta tham gia thực hiện. Hàng năm, Quốc hội cũng ban hành nghị quyết phê chuẩn dựa trên ba nhóm mục tiêu đó với những chỉ tiêu cụ thể cho từng nhóm; đặc biệt là các nghị quyết của Quốc hội về mục tiêu kinh tế - xã hội hàng năm. Như vậy, có thể nói, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội về vấn đề: “quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” được Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội quy định đã được cụ thể hóa trong các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Tuy nhiên, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dù ngắn hạn - trung hay dài hạn đều chứa đựng cả những nội dung định lượng lẫn định tính; tức là bao gồm về số lượng và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước; nhưng khi xem xét những chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Quốc hội quyết định thường chỉ mới phản ánh vấn đề ở khía cạnh số lượng, chưa phản ánh mặt chất lượng của sự phát triển. Do đó, việc lựa chọn và định ra những chỉ tiêu mà Quốc hội cần quyết định phản ánh được chất lượng của sự phát triển chính là vấn đề trọng tâm cần phải nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.
2. Những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội liên quan đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm
Từcách nhìn nhận các vấn đềmang tính lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi xin đề nghị một số nội dung mang tính chất định hướng để góp phần vào việc xây dựng nội dung và danh mục các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
2.1 Những mặt tích cực và hạn chế trong việc Quốc hội thực hiện thẩm quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2.1.1 Những hạn chế từ cơ chế tổ chức và hoạt động
Trước hết, cần thừa nhận một thực tế là mặc dù Quốc hội nước ta đã không ngừng đổi mới về cơ cấu tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động trong nhiều nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống chính trị đất nước, nhưng kết quả hoạt động của Quốc hội còn khoảng cách khá xa so với địa vị pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định.     
 Nhưng mặt khác cũng thấy rằng, nếu không làm rõ thẩm quyền của Quốc hội, với chức năng chủ yếu là cơ quan lập pháp, sẽ dễ “dẫm chân” vào chức năng hành pháp của Chính phủ, nhất là trong điều hành phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nếu chỉ dựa vào điều kiện thực tế về cơ cấu đại biểu Quốc hội, cơ cấu tổ chức, năng lực của bộ máy tham mưu, giúp việc Quốc hội, phương tiện hoạt động của Quốc hội… thì những kết quả mà Quốc hội đã làm được trong thời gian qua đã là quá tốt, nên những hạn chế về kết quả hoạt động của Quốc hội nói chung và về thẩm quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói riêng có nguyên nhân khách quan từ cơ chế tổ chức và hoạt động Quốc hội hiện nay.
2.1.2  Những hạn chế do chậm đổi mới nội dung và phương thức xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Như đã phân tích ở trên, việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước hoàn toàn không mâu thuẫn với sự vận hành của cơ chế thị trường, mà chính kế hoạch là công cụ để định hướng thị trường và khắc phục những khuyết tật của thị trường. Nhược điểm của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua là thường nặng về sự áp đặt các mục tiêu mang ý muốn chủ quan hơn là một bản kế hoạch để qua đó dẫn dắt các chủ thể của một nền kinh tế hoạt động theo định hướng của Nhà nước. Vì vậy trên thực tế, dường như các mục tiêu kế hoạch mà Chính phủ trình ra Quốc hội mới phản ánh được ở khía cạnh “phải làm gì” mà chưa phản ánh được các nội dung quan trọng hơn là “làm cách nào” và “ai làm”. Do đó, thực tế giữa mục tiêu kế hoạch và chính sách kinh tế không gắn liền với nhau. Từ nhiều năm qua, Đảng đã chủ trương và yêu cầu: “Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp kế hoạch xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phát huy tối đa lợi thế quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội”. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên hiện nay là phải đổi mới căn bản công tác lập kế hoạch trong đó bao gồm các khâu như công tác phân tích,dự báo; tách biệt giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện; nhất là gắn các mục tiêu với các nhóm chính sách điều chỉnh vĩ mô. Đây là vấn đề đầu tiên cần thực thi để nâng cao vai trò và chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô và cũng qua đó, xác định các nội dung và thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
2.2 Quốc hội chỉ quyết định những nội dung mang tính cưỡng chế theo hiệu lực pháp luật
-  Đối với những kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm, Quốc hội cần quyết định các chỉ tiêu liên quan đến các chỉ số phát triển con người (HDI), vì đó là mục tiêu cuối cùng đánh giá trình độ phát triển và rất gần gũi với đặc điểm của nền kinh tế XHCN. Bên cạnh đó, có thể tham khảo để lựa chọn một số chỉ tiêu quan trọng trong mục tiêu thiên niên kỷ mà nước ta đang xây dựng và phấn đấu thực hiện, bao gồm các chỉ tiêu phản ảnh tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc quyết định các mục tiêu định lượng, cần quyết định thêm những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển biến về chất của sự phát triển. Ví dụ, chỉ tiêu thu hẹp khoảng cách giàu nghèo sau mỗi 5 năm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hay chỉ tiêu nâng ngưỡng nghèo nhằm phản ánh mục tiêu công bằng xã hội.
-  Bên cạnh việc quyết định những chỉ tiêu mang tính cưỡng chế theo hiệu lực pháp luật, cũng cần đề ra những chỉ tiêu mang tính chất khuyến nghị đối với Chính phủ trong công tác điều hành. Để phù hợp với tính linh hoạt của thị trường, nên giảm bớt những chỉ tiêu mang tính pháp lệnh - nhất là trong lĩnh vực kinh tế - mà tăng thêm những chỉ tiêu mang tính khuyến nghị nhằm định hướng cho sự điều hành của Chính phủ cũng như định hướng hoạt động của toàn xã hội. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế, những chỉ tiêu như chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng trưởng xuất nhập khẩu; huy động vốn đầu tư đạt bao nhiêu phần trăm GDP... nên xem là những chỉ tiêu mang tính khuyến nghị. Bên cạnh đó, đưa chỉ tiêu tăng xuất khẩu ròng cho mỗi kế hoạch 5 năm nhằm ràng buộc nhiệm vụ của Chính phủ trong công tác điều hành nền kinh tế.
Đối với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu Quốc hội quyết định các định hướng liên quan đến chất lượng của sự phát triển; các chỉ tiêu cần thiết để xác định các bước tiến bộ trên con đường công nghiệp hoá, tính chất của sự phát triển bền vững. Phần quan trọng hơn là quyết định các quyết sách bảo đảm điều kiện thực thi kế hoạch, để làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật có liên quan (gắn với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội).
-  Đối với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, nên hạn chế bớt các chỉ tiêu mang tính pháp lệnh mà nên tập trung vào việc quyết định những chính sách kinh tế trong năm. Nếu nhìn vào hệ thống chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội mà Quốc hội quyết định hàng năm, nhiều chỉ tiêu thực sự chỉ có thể đánh giá sau mỗi 5 năm. Có thể chuyển một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm sang các chỉ tiêu mang tính khuyến nghị và kèm theo đó là những chính sách để thực hiện.
Về lĩnh vực kinh tế thì trong kế hoạch hàng năm, chỉ nên tập trung vào bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô như đã nêu trên cùng với chỉ tiêu về thu chi ngân sách nhà nước; còn các chỉ tiêu khác sẽ gắn vào phần khuyến nghị của Quốc hội trong điều hành của Chính phủ.
2.3 Có sự phân biệt giữa mục tiêu và phương tiện trong quyết định của Quốc hội
Về nguyên tắc, khi Quốc hội quyết định các mục tiêu thì quyết định luôn các phương tiện để bảo đảm cho việc thực thi. Tuy nhiên, không phải mọi phương tiện thực thi kế hoạch đều thuộc về Nhà nước, nên càng không thuộc về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội. Do đó, cần tách các chỉ tiêu kinh tế, mang tính phương tiện như tỷ lệ huy động vốn đầu tư/GDP... ra khỏi hệ thống chỉ tiêu kế hoạch do Quốc hội quyết định, mà thay vào đó là chính sách huy động vốn đầu tư. Ví dụ, khi dự báo tổng vốn đầu tư bảo đảm cho tốc độ tăng GDP, trong đó xác định phần vốn đầu tư của Nhà nước, của khu vực tư nhân, Quốc hội chỉ nên quyết định chỉ tiêu đầu tư ngân sách nhà nước, trong kế hoạch sử dụng ngân sách hoặc quyết định phương thức tài trợ ngân sách nhà nước để khuyến khích đầu tư tư nhân.
2.4 Đổi mới phương thức quyết định của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và 10 năm
Trên cơ sở đổi mới nội dung và phương thức lập kế hoạch, để Quốc hội có thể quyết định những nội dung của kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm phù hợp với quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội, cần phải thay đổi quy trình xem xét và ra quyết định của Quốc hội về vấn đề này.
-  Thứ nhất, cần thay đổi nội dung báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ trước Quốc hội, chuyển từ tính chất mô tả kết quả sang phân tích các mối quan hệ bên trong đưa đến những kết quả đó. Ví dụ, trong lĩnh vực kinh tế cần phải có báo cáo phân tích các yếu tố cấu thành tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế; các chính sách đã thực thi tác động đến các yếu tố đó.
-  Thứ hai, gắn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với chính sách, công cụ thực thi. Vừa qua, trong các Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm đều có nêu các chính sách và giải pháp. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều chính sách và giải pháp không được triển khai và cũng chưa làm rõ được mối quan hệ của các chính sách và giải pháp đó với các mục tiêu kinh tế - xã hội đã quyết định. Để giải quyết tồn tại này, đề nghị khi Quốc hội quyết định các mục tiêu kinh tế - xã hội hàng năm cần gắn liền với việc quyết định nội dung các chính sách và giải pháp thuộc thẩm quyền Quốc hội. Ví dụ, một chính sách liên quan đến một hoặc nhiều đạo luật cụ thể thì quyết định việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các đạo luật đó. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm mang tính ngắn hạn, nếu chưa nhìn thấy được cụ thể giải pháp thực thi, thì tự thân những mục tiêu đó thiếu tính khả thi. Đây là vấn đề rất quan trọng liên quan đến hiệu quả và hiệu lực các quyết định của Quốc hội.
-  Thứ ba, gắn quyết định các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm với quyết định phân bổ ngân sách nhà nước hàng năm. Phân bổ ngân sách nhà nước hàng năm là công cụ tài khóa có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm việc thực thi kế hoạch kinh tế - xã hội. Do đó, để có cơ sở phân bổ ngân sách đầu tư, Quốc hội nên quyết định mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trước khi quyết định việc phân bổ ngân sách đầu tư và có sự liên kết giữa đầu tư với các mục tiêu kinh tế-xã hội. Do đặc điểm Quốc hội nước ta thường chỉ có hai kỳ họp giữa năm và cuối năm, nên nếu trong kỳ họp giữa năm quyết định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho năm sau để làm cơ sở cho việc quyết định phân bổ ngân sách vào kỳ họp cuối năm thì sẽ gặp khó khăn trong công tác dự báo để ra quyết định. Do đó, trong điều kiện chưa có sự thay đổi về thời gian họp và số lượng các kỳ họp của Quốc hội, thì có thể trong kỳ họp giữa năm Quốc hội cần có Nghị quyết về định hướng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của năm sau để làm cơ sở cho việc dự toán phân bổ ngân sách đầu tư. Trong kỳ họp cuối năm, khi đã đủ các yếu tố để quyết định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của năm sau, sẽ có sự điều chỉnh chính sách đầu tư (nếu mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội có thay đổi) tương ứng với sự thay đổi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
-  Thứ tư, đổi mới bản thân nội dung các Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm tính cưỡng chế của pháp luật (Nghị quyết của Quốc hội có hiệu lực như một đạo luật), nhưng cũng tránh sự trói buộc cứng nhắc hạn chế tính linh hoạt trong điều hành của Chính phủ. Do đó, trong Nghị quyết luôn luôn có phần khuyến nghị, không mang tính cưỡng chế, nhưng có ý nghĩa như nhng tín hiệu được phát ra từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đối với xã hội.
-  Thứ năm, không chỉ là việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, mà muốn nâng cao chất lượng việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, cần nâng cao năng lực bộ máy tham mưu giúp việc của Quốc hội, trước hết là khả năng cung cấp thông tin, phân tích và đánh giá tác động của các quyết sách của Quốc hội. Đây là nhân tố rất quan trọng để bảo đảm chất lượng các quyết định của Quốc hội.
Tóm lại, để xác định rõ nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, trước hết phải đổi mới phương pháp và nội dung lập kế hoạch phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nên xây dựng theo hướng nặng về tính chất dự báo và định hướng; tách biệt giữa mục tiêu và phương tiện thực thi; đồng thời gắn liền với chính sách để huy động nguồn lực. Quốc hội nên quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm theo hướng giảm bớt những chỉ tiêu pháp lệnh mà cần mở rộng những chỉ tiêu mang tính khuyến nghị cho công tác điều hành của Chính phủ; đồng thời gắn các mục tiêu phát triển với các quyết sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội hoặc khuyến nghị những giải pháp thuộc công tác điều hành của Chính phủ./.
 
 
                                      
 
  
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên trang thông tin điện tử Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2,3(306,307), tháng 1,2/2016)